Catasetum.
Tông: Cymbidieae.
Tông phụ: Catasetinae.
Phân bố: Hơn 150 loài ở Trung và Nam Mỹ và quần đảo Indies.
Nguồn gốc tên gọi: Xuất phát từ tiếng Hy-lạp kata nghĩa là đi xuống phía dưới, và seta nghĩa là những cái lông cứng, để chỉ những sợi lông ở trụ hoa.
Là loài lan đa thân có kích thước từ vừa đến lớn. Hầu hết đó là lan biểu sinh song đôi khi nó cũng xuất hiện là thạch lan hay địa lan. Giả hành hình trứng, hình côn hoặc hình con quay, khi thân còn non, nó được bao bọc bởi lớp vỏ lụa. Lá mọc thành hai hàng, lá to và phẳng, rụng lá theo chu kỳ. Vòi hoa không phân nhánh, hướng lên trên, uốn cong hoặc rủ xuống, tùy loài. Vòi hoa mọc từ gốc giả hành mới hoặc giả hành đã trưởng thành. Màu của hoa cũng bắt mắt, thường chia thành hoa đực và hoa cái, sự khác nhau giữa hai giống đực cái là phần hình thức bên ngoài, trên một vòi hoa cũng có thể xuất hiện hoa đực cái và cũng có khi chúng mọc trên một vòi hoa riêng rẽ. Màu sắc thường thấy nhất là vàng hoặc xanh ngả vàng, có những đốm màu hạt dẻ hoặc màu nâu. Hoa đực thường có màu sáng tươi hơn và số lượng hoa đực cũng nhiều hơn. Trong cả hai, các lá đài và các cánh hoa trải rộng, không theo quy ước. Môi hoa giống cái túi. Khối phấn được phun mạnh bởi cơ chế hoạt động kích thích của hai cái râu ở gốc trụ hoa.
CÁCH TRỒNG
Cây có thể được trồng trong chậu, song chúng thường được trồng trong giỏ với các chất trồng dựa trên các mảnh vỏ cây, nơi có nhiều ánh sáng và ẩm, thông gió tốt, nhiệt độ trung bình hoặc ấm. Các hoa cái gần như là chỉ xuất hiện khi gặp những cú sốc, kiểu như là gặp phải ánh sáng mạnh hoặc quá khô. Sau khi cây rụng lá thì đưa chúng vào chỗ mát và để khô hơn.
Lan Catasetum barbatum
Lan Catasetum macrocarpum