Chuyện dài về lan hài

Paph. vietnamense x delenati

Chuyện dài về lan hài

Ngày 27/01 vừa qua, trên trang web này tôi có đăng phần 1, câu chuyện dài về lan hài (Slipper Orchids). Hôm nay xin đăng tiếp bài 2. Các bài tiếp theo sẽ là phần mô tả các giống lan thuộc họ lan hài và cách trồng. Phần cuối cùng sẽ đi vào chi tiết các loài của 4 giống thuộc họ lan hài. Hy vọng làm hài lòng các bạn.

Bài 2: Hình thái học thực vật của lan hài

 Rễ. Rễ của các giống lan hài được bao bọc bởi một lớp vỏ lụa luôn luôn xanh, đó là lớp biểu bì bên ngoài của hầu hết các loại rễ lan. Lớp vỏ lụa giúp rễ có khả năng hấp thụ độ ẩm trong không khí cũng như nước. Không những thế, rễ còn giúp cho các cây lan hài đứng vững trên đất mà hút nước và khoáng chất dinh dưỡng. Chức năng bám vào đất hiển nhiên là quan trọng, đặc biệt là những loài lan hài không phải là địa lan như PaphiopedilumPhragmipedium, những giống đó leo lên vách đá gần như dựng đứng, hoặc trên các cây, tảng đá hoặc đất nền nghèo dinh dưỡng khác. Những nhà trồng lan nên lưu ý điều này để mỗi lần thay chậu và đưa vào những chất trồng thoát nước tốt nhưng cũng làm sao để cây lan bám chậu tốt. Trong tự nhiên, rễ cũng những loài luôn xanh, thì đó hoặc là loài bán địa lan (semiterrestrial) hoặc thạch lan (lithophytic) hoặc lan biểu sinh (epiphytic).

Rễ của các loài lan hài (Slipper orchids) khỏe và to, đường kính đo được từ 2 đến 5 mm, chúng nhờ các nhánh mà trải rộng ra, chiều dài tổng cộng của những cây khỏe mạnh lên đến 30-50 cm. Đầu rễ của những cây Paphiopedilum có màu be đến trắng ngà, trong khi đó những cây già dần dần trở nên màu nâu tối và giống da lông thú hơn.

Rễ hiện ra từ thân rễ, cũng là từ chân của các lá hình quạt, ở một số loài thì chúng xuất hiện ở trục của lá dưới cùng. Điều quan trọng cần nhớ rằng cây con của loài lan xếp lá hình quạt thường từ rễ, do đó các cây con phải phụ thuộc vào cây cha mẹ trên một năm, lúc đó bộ rễ của cây con mới hình thành đầy đủ, đó mới là thời gian chúng ta có thể tách cây con ra khỏi cây cha mẹ.

Thân cây. Thân của giống PaphiopedilumPhragmepedium có cơ cấu thực vật nhỏ nhất, và nó được phân chia thành 2 cấu trúc cũng như thành phần chức năng. Thân chính là thân rễ nằm ngang, ở vị trí gốc và thường thì bị che lấp bởi lớp đất nền. Đây là thân chính, tạo ra rễ, bộ rễ sẽ hình thành các nhánh, nhánh đứng sẽ thành cây và mang các lá. Thân đứng được thu gọn lại đến mức tối thiểu, và người ta có thể hiểu lầm rằng chúng có thân giống thân rau diếp. Các đốt ẩn bên trong bị nén lại vì thế các lá mới mọc ngay phía trên đỉnh. Thân đứng mang trên nó một số lá, sau khi đã trưởng thành đến độ nào đó thì chồi hoa mới sẽ xuất hiện. Trong một số loài hoặc đã được lai tạo, chồi non xuất hiện ở gốc của tần lá thấp của những lá cũ và sẽ tạo thành những lá xếp mới. Ở những cây như thế, các chồi mới sẽ tăng trưởng nhanh, đến một thời điểm nào đó thì tạo thành cụm. Cây lan Paphiopedilum Maudiae, loài lan lai đầu tiên là một ví dụ. Sau một số năm phát triển tươi tốt, cây P. Maudiae trưởng thành vẫn liên tục ra hoa.

. Đối với tất cả 4 giống thuộc họ lan hài thì lá của các loài đều khác nhau. Để hiểu rõ, chúng ta quan sát các đặc tính bằng cách lập thành danh mục liên tiếp nhau. Lá gấp nếp (gập lại hoặc hình thành các dải theo chiều dọc của lá do các đường gân song song với nhau tạo thành). Lá của giống Cypripedium và giống Selenipedium thì khá mỏng và gập đôi một cách cân đối (gân giữa tạo thành đường sống, gập lại thành hình chữ V nếu ta cắt ngang lá), lá của giống PhramipediumPaphiopedilum là loại lá dai (gần như da động vật). Xét ở phía đầu nhỏ, mỏng thì lá của Cypripedium còn mỏng hơn lá của giống Selenipedium. Như một nguyên tắc, nhưng loài có màu lá luôn xanh dù lá dầy, mỏng hay trung bình thì thường thấy ở trong phạm vi giống lan hài Paphiopedilum. Trong giống này có những yếu tố kết hợp như bản chất, độ dài của lá để xác định coi chúng là loài đứng thẳng, cứng cáp, bò lan hoặc thậm chí là buông rủ mới biết được chúng là loài bám vào vách núi (thạch lan) hay chúng là lan biểu sinh.

Một số loài lan hài (slippers) có lá với một lớp lông trên bề mặt hoặc ở mép lá, dù cho phần lớn các lá là lộ thiên.

Phần lớn các loài Paphiopedilum đều được đánh dấu bằng sắc tố tím hồng ở mặt dưới của lá, và cũng chỉ lá của giống này mới khảm màu như vậy. Tỷ lệ của mức độ khảm màu từ  xanh đậm đến trắng bạc hiện hữu ít hay nhiều là đặc tính của các loài thuộc giống này, kể cả những loài thuộc dị bản. Cũng có một số loài thuộc Paphiopedilum có lá trơn, thuần xanh không hề có chút khảm màu nào. Lá của hai loài thuộc Cypripedium lại có những đốm dầy đặc màu nâu lợt. Ngoại trừ hai loài đó, còn lại lá thuộc Cypripedium, Phragmipedium Selenipedium đều không có đốm trên nền lá xanh mướt.

Ngoại trừ một số rất ít loài có lá dài và hẹp, Phần còn lại thì không có răng cưa ở riềm lá, không có gân hình tia hoặc mép lá không theo một hình dáng nhất định. Các loài thuộc Cypripedium là những loài có lá biến đổi nhiều nhất, kể cả những loài mà lá của chúng có bản rộng, hình quạt, trên đó xuất hiện răng cưa trên mép lá vì lá gập đôi một cách rõ rệt.

Các đường gân có khi hiện rõ ở mặt dưới của lá, tạo thành đường sống nổi lên ở những lá hình chữ V (mặt cắt ngang). Ngược lại ở một số loài khác, đường gân lại không lộ rõ, đó là ở các loài có lá tương đối phẳng.

Vì lá là một tổ chức quang hợp của cây lan, không cần thiết nhấn mạnh những đặc điểm về lá của mỗi giống lan. Song nếu xét về tính chất thẩm mỹ thì chúng ta cũng cần coi trọng về hình dạng cũng như cấu trúc của lá, vì lá giúp chúng ta xác định được giống và thậm chí là cây lan đó thuộc loài nào.

Lan hài Cypripedilum calceolus

Lan hài Cypripedilum calceolus

Lan hài Paph appletonianum

Lan hài Paph appletonianum