NỀN ĐỘC LẬP.

giaiphong

NỀN ĐỘC LẬP.

Cái đám người không ra người, ngợm chẳng ra ngợm, trong những ngày tháng Tư này cử ngoác cái miệng ra mà chửi. Đám người đó là người nào?

Trước hết, đó là những người còn nặng lòng thù hận. Thôi thì cũng phải. Làm sao mà có thể dễ dàng nuốt trôi sự thất bại quá ư là lớn lao. Thôi, các ông các bà cứ chửi, cứ ghét cho thỏa dạ. Năm nay các ông các bà và chúng tôi cũng đã 70-80 tuổi rổi. Cùng lắm thì cũng chỉ dăm mười năm nữa thì chúng ta sẽ chết đi, chẳng lẽ gặp nhau dưới âm phủ lại chửi nhau tiếp? Xin nói trước, ở trên thiên đàng cũng như dưới địa ngục là không tôn giáo, không giai cấp, không địch không ta, xin đừng đem lòng hận thù xuống âm phủ thì khó siêu thoát lắm đó. Và cũng xin đừng truyền lại lòng hận thù cho con cháu của chúng mình, tội chúng nó lắm, để chúng nó yên tâm mà xây dựng sự nghiệp.

Loại người thứ hai, là những kẻ phản bội. Đó là những kẻ “trở mặt như trở bàn tay”. Tổ chức nào cũng không nên kết nạp đám người này vào hội, chúng chỉ là những kẻ cơ hội, kiếm chác chứ chẳng có lý tưởng gì đâu nhé. Có lợi dụng chúng được lúc nào hay lúc đó, chứ không thể kết bạn lâu dài được. Nhớ câu “ăn cháu đá bát”, chúng nó đó. Khối đứa nhờ có cách mạng mà làm nên ông này bà nọ, nhà cao cửa rộng, nhưng khi đánh hơi thấy có món lợi gì đấy hoặc khi hết quyền hết lợi thì chúng “qua sông đấm bè vào sóng”, quay lại sủa ngay ân nhân của mình, mà đại diện cho loại này là mấy người được phong là giáo sư hay “gáo hư” gì đó. Tóm lại, đó là bọn không thể tin được, chúng là một lũ phản trắc.

Loại người thứ ba là loại ít học, không chịu tu dưỡng nên cứ thích “đổi trắng thay đen”, “ngậm máu phun người”. Bọn này ít học, nhưng lại thâm độc, vì ít học nên hành xử như lũ súc sinh, như thành ngữ Việt Nam nói, chúng “độc có lông trong bụng” hay “độc có ròi có bọ”. Đơn giản nhất là hai chữ “độc lập” mà chúng cũng không hiểu. Chúng bảo miền nam Việt Nam là một nước độc lập, một nước tự do. Thử lục lại các văn kiện lịch sử trong nước và quốc tế ra coi, ngay như Hiệp định Geneve năm 1954 về Việt Nam, cũng không ai nói, có hai nước Việt Nam. Nói vậy thôi, có nói thêm chúng cũng không hiểu!

Các bạn thân mến,

Phần trên đây là tôi nói với bọn người không ra người, ngợm chẳng ra ngợm, vì vậy nếu các bạn có lỡ đọc rồi thì nhanh chóng quên đi. Phần sau đây tôi muốn chia sẻ với các bạn của tôi, vì các bạn là những người tử tế.

Thực sự, nước nhà trải qua 4.000 năm lịch sử (cứ cho là như vậy đi), Các triều đại vua chúa của nước ta trước kia cũng có một vài bản văn tuyên bố này nọ, như “Nam quốc sơn hà” được coi như bản Tuyên ngôn độc lập đầu tiên thời Lê Hoàn chống quân nhà Tống năm 981, cũng như Lý Thường Kiệt chống quân Tống năm 1077. Rồi đến “Binh Ngô đại cáo” do Nguyễn Trãi soạn, và công bố vào năm 1428, sau khi Lê Lợi chiến thắng quân Minh (*). Các bản tuyên ngôn chỉ có giá trị bố cáo cho dân chúng trong nước và kẻ xâm lược phương Bắc biết, chứ chưa thể công bố cho toàn thế giới biết. Mãi đến ngày 2 tháng 9 năm 1945, mới có “Bản tuyên ngôn độc lập” đầu tiên được Chủ tịch Hồ Chí Minh công bố ra toàn thế giới. Cho đến nay Việt Nam đã có quan hệ ngoại giao với 187 nước trên thế giới, tức là có bằng ấy nước công nhận nền độc lập của Việt Nam, trong đó có các cựu thù như Pháp và Hoa kỳ.

Các bạn cũng như tôi, chúng ta đã từng học về lịch sử nước nhà, ai mà không biết là, các triều đại phong kiến nước ta, sau mỗi lần đánh thắng quân xâm lược phương bắc, lại thực hiện việc triều cống. Nước Trung Hoa tự đặt cho mình một vai trò là trung tâm vũ trụ, các nước xung quanh chỉ là phiên thuộc, các hoàng đế Trung Hoa là thiên tử, đứng cao hơn quả địa cầu. Tuy nhiên, “những dân tộc về phía đông nam Trung Hoa, dù trên danh nghĩa phụ thuộc vào thuyết vũ trụ học của Trung Hoa, nhưng lại sở hữu các truyền thống quân sự và những bản sắc dân tộc đáng kể. Dân tộc ngoan cường nhất trong số này, người Việt Nam đã quyết liệt chống lại những khẳng định của Trung quốc về sự ưu việt của mình, và có thể đánh bại Trung quốc trong chiến tranh” (Henry Kisinger).

Vậy đó, dù trải qua một ngàn năm Bắc thuộc, dân tộc Việt Nam vẫn không bị đồng hóa, chúng ta có bản sắc riêng, có văn hóa riêng, phong tục cũng riêng.

Chỉ đến khi triều đình nhà Nguyễn trị vì, thì việc triều cống cũng như việc phong tước của các vua Trung Hoa cho các vua quan Việt Nam mới thực sự chấm dứt. Song tiếc rằng, vào thời kỳ đó Việt Nam lại dần rơi vào vòng nô lệ mới – thực dân Pháp chiếm nước ta làm thuộc địa từ cuối thế kỷ 19, chia cắt nước ta ra làm ba vùng, gần như là ba quốc gia, cộng với Lào và Campuchia, để trở thành một liên bang Đông dương.

Khi thấy khó lòng đi tới một thỏa thuận với chính phủ Pháp về những cuộc gây hấn của Pháp (mặc dù vào ngày 15-3-1874 triều đình Huế đã ký một Hiệp ước với Pháp), triều đình Huế đã cầu cứu Thanh triều, lập tức nhà Thanh không công nhận Hiệp ước 1874 và đem quân vào đóng ở Bắc Ninh và Sơn Tây. Đúng là “tránh vỏ dưa, gặp vỏ dừa”! Đây chỉ là mánh khóe của chính phủ Trung Hoa để đi tới sự phân chia Bắc kỳ với người Pháp. Nhưng điều đó đã không thực hiện được, do bộ Hải quân Pháp, thượng tướng Jauréguiberry quyết giữ Bắc kỳ trong vòng kiểm soát của Pháp.

Như vậy, ngay từ triều đình nhà Thanh đã muốn Bắc kỳ trở thành khu đệm, cách ly người Pháp ở Trung kỳ và Nam kỳ. Tính toán này cũng được các hậu duệ của hoàng đế Trung Hoa thực hiện, đó là vào năm 1954, khi Hiệp định Geneve về đình chiến ở ba nước Đồng dương, những người lãnh đạo Trung Hoa đã thỏa hiệp với Pháp để chia cắt Việt Nam thành hai vùng, lấy vĩ tuyến 17 là giới tuyến quân sự tạm thời. Trường hợp của Triều Tiên hiện nay cũng thế. Trung quốc cố giữ Triều Tiên trong vòng kiềm tỏa của mình để làm khu bình phong, cách ly Trung quốc với Hàn quốc, để Trung quốc được yên ổn.

Công cuộc tổng tuyển cử toàn quốc, theo Hiệp định Geneve thì phải được tiến hành vào năm 1956, nhưng Mỹ đã có âm mưu phá hoại, không thực hiện Hiệp định này, nên đã không ký tên vào Hiệp định. Mỹ đã giúp cho thực dân Pháp đến 80% chi phí chiến tranh trong 9 năm, từ 1946 đến 1954, sau đó thế chân Pháp để xâm lược Việt Nam duy trì việc chia cắt lâu dài nước ta.

Trong giai đoạn này, phe xã hội chủ nghĩa có những bất đồng khó hàn gắn, một bên là các nước XHCN đông Âu, đứng đầu là Liên bang Xô Viết (Liên Xô), một bên là Trung quốc. Vì vậy, Trung quốc đã lôi kéo Việt Nam để chống lại Liên Xô, nhưng các nhà lãnh đạo Việt Nam, với thái độ độc lập và tự chủ đã không tham gia vào các cuộc đấu đá đó.

Như ông Henry Kisinger, bộ trưởng Ngoại giao Hoa kỳ thời Tổng thống Nixon/Ford đã viết: “Phản kháng Trung quốc giúp sản sinh niềm tự hào nồng nhiệt, thiết tha về nền độc lập và truyền thống quân sự ghê gớm của người Việt…”, “Việt Nam ép Trung quốc phải đương đầu với thách thức về địa chính trị và tâm lý chưa có tiền lệ. Các nhà lãnh đạo của Hà Nội đã quen thuộc với binh pháp của Tôn Tử và triển khai các nguyên tắc của nó nhằm tạo hiệu quả đáng kể chống lại cả Pháp và Mỹ. Ngay cả khi kết thúc chiến tranh lâu dài, đầu tiên là với Pháp khi họ cố gắng dành lại thuộc địa của mình sau thế chiến II, và sau đó là Mỹ từ năm 1963 đến 1975, cả Bắc kinh lẫn Hà Nội đều bắt đầu nhận ra rằng, bối cảnh tiếp theo sẽ là cuộc chiến giữa chính họ giành ưu thế đối với Đông dương và các nước Đông Nam Á…” (hết trích).

Ước gì tất cả chúng ta, những người Việt Nam – dù người ở trong nước hay ở hải ngoại, những người khác nhau về chính kiến hãy đoàn kết lại để làm thất bại mưu đồ cai trị của người hàng xóm phương Bắc. Chính họ mới là nhân tố gây chia rẽ nhân dân ta. Hãy nghe ông Henry Kisinger viết tiếp (năm 1972-1973): “Các nhà lãnh đạo Trung quốc có khả năng cho rằng, nước Mỹ không thể bị đánh bại, rằng miền Bắc Việt Nam bị chia rẽ sẽ phải phụ thuộc vào sự hỗ trợ của Trung quốc khá nhiều, giống như CHDCND Triều Tiên, sau khi kết thúc chiến tranh Triều Tiên” (hết trích). Câu nói này của Trung quốc nên được hiểu là “Mỹ sẽ không thua (tức là ở lại VN vĩnh viễn), nếu đưa được miền bắc VN vào trong vòng kiềm tỏa của Trung quốc”, đó là âm mưu chia cắt lâu dài nước Việt Nam và dùng miền bắc VN là vùng đệm cho Trung quốc. Trước như vậy và ngày nay cũng như vậy.

Như vậy là chỉ khi cuộc chiến tranh chống Mỹ kết thúc vào năm 1975 thì nước ta mới thực được độc lập, giang sơn mới được thu về một mối. Nhưng các thế lực thù địch trong và ngoài nước luôn có những hành động đe dọa đến nền độc lập, thống nhất của nước ta. Chúng ta cần cảnh giác!

Thế mà lũ người không ra người, ngợm chẳng ra ngợm cứ ra rả nói rằng những nhà lãnh đạo Việt Nam làm tay sai cho Trung quốc. Chính những kẻ nói như vậy lại là kẻ đang giúp Trung quốc thực hiện kế hoạch của họ. Rõ một lũ ngu!

HẾT

Kỳ sau: “NHỮNG CUỘC MẶC CẢ”

(*) Ở đây có một chỗ dễ lầm lẫn: tại sao Lý Thường Kiệt đánh thắng quân Minh mà lại gọi là “bình Ngô”? Vì người Việt ta xưa, gọi tất cả những người Trung hoa là “chú khách” hoặc “thằng Ngô”. Thời tam quốc Trung quốc có ba nước: Ngụy, Thục, Ngô. Nước Ngô là một quốc gia nắm sát nước Việt giao dịch với chúng ta nhiều. Tục ngữ ta có câu: “có mặt: chú khách; vắng mặt: thằng Ngô”

Tháng 4/2017

Ph. T. Kh.

—————————————————————–

Nguồn tham khảo:

  • Bàn về Trung quốc của Henry Kisinger
  • Xứ Đông dương của Paul Doumer
  • Việt Nam thời Pháp đô hộ của Nguyễn Thế Anh

Add a Comment

Your email address will not be published.