GIỐNG CYPRIPEDIUM
A. Loài Cypripedium hirsutum Xin xem loài Cypripedium calceolus L.
B. Loài Cypripedium humile Xin xem loài Cypripedium acaule Ait.
C. Loài Cypripedium irapeanum Llave & Lex.
Không còn nghi ngờ gì nữa, loài này có quan hệ với C. dickinsonianum mà vừa qua người ta đã mô tả là thường bắt gặp ở Chiapas, Mexico. Bản chất thực của họ lan này vừa qua đã được xác định. Mặc dù rằng việc lập các bản kê này được xếp loại như là các biến loài của một loài đơn nào đó, trong phạm vi bài này họ vẫn giữ nguyên là hai loài riêng biệt.
PHÂN BỐ THEO ĐỊA DƯ. C. irapeanum là một loài trong giống Cypripedium sinh trưởng ở những vùng cực nam. Chúng được phân bố rộng rãi trong suốt chiều dài các dẫy núi thuộc các bang của Mexico, và có nhiều ở vùng núi của Guatemala.
MÔI TRƯỜNG SỐNG. Loài này phát triển trên các sườn núi cao có nhiều mưa, và phát triển tốt ở độ cao đến 3.300 m. Đất trồng là loại đất sét đỏ nhưng không có acid. Nhìn chung, các cây được di thực từ những vùng đá vôi hoặc vùng tro của núi lửa làm chất nền, tiếp nhận nước mưa chỉ trong những tháng mùa xuân ẩm ướt và mùa hè. Một vấn đề chưa rõ là không biết chúng có nghỉ khi mùa đông đóng băng đông và kỳ khô hạn ở tất cả những nơi chúng sinh trưởng. Những mạch nước ngầm có thể là một nhân tố để làm dịu bớt tình trạng khô cứng trong mùa khô.
Ở hầu hết các vị trí, bóng râm cho các cây lan này chỉ từ những bông cỏ mọc cùng một độ cao với cây lan.
NHỮNG LƯU Ý KHI NUÔI TRỒNG. Loài lan hài này rất khó trồng. Việc nhập khẩu hầu như không thực hiện được bởi vì các rễ sẽ chết và do thời gian làm thủ tục hải quan và vận chuyển làm hư hại rễ. Đem cây về trồng nơi mình ở rất ít khi thành công, và cũng chưa rõ độ pH có ảnh hưởng như thế nào hoặc còn những yếu tố gì nữa.
MÔ TẢ. Loài lan hài C. irapeanum là một trong những loài có thân cao nhất trong giống này, nó cao tới 75 cm hoặc hơn. Thân cây mang 6-16 lá. Những lá ở dưới thấp rất lớn với kích thước lá giảm dần lên phần trên của thân và tiến tới bằng lá bắc của hoa. Chiều dài của lá từ 20 cm cho đến chỉ còn 8-10 cm. Phần giữa của lá là lớn nhất, lá có hình ô van đầu nhọn như mũi mác, chiều rộng của lá từ 6-8 cm, và các lá phần trên chỉ từ 2-4 cm. Lá sắp xếp theo hình xoắn ốc. Lá bắc của hoa dài 4-6 cm, rộng 1,5-3 cm, có màu xanh đậm giống màu lá.
Vòi hoa mang 1-8 hoa lớn, màu sắc bắt mắt, một màu vàng với những chi tiết phẳng, rộng. Lá đài sau là hình trứng rộng, nhọn đầu, dài 2-3 cm và rộng 1,5-2 cm. Các lá đài giả giống hệt như vậy.
Các cánh hoa cũng có hình trứng, mũi mác, đầu nhọn dài 2,5-3,5 cm, rộng 1,5-2 cm. Túi (hài) hoa hình cầu, phồng lên do hai bên mép gập lại, mặt ngoài có những đốm đỏ.
MÙA RA HOA. Tháng Sáu và tháng Tám.
TÊN CHUNG. Trong tiếng Anh không có tên nào tương đồng với nó, nhưng loài này thường được gọi là “pichahuastle”.
Kỳ sau: Giống CYPRIPEDIUM (Phần 25)