HÀNH LẠC TỪ

                HÀNH   LẠC  TỪ   (BÀI 1)

Nhân dip đón năm Tuất,  tếu táo viết mấy dòng này về một bài từ của Nguyễn Du mang tên  Hành lạc 1. ( Nguyên Du còn có bài từ Hành lạc  2 )

        Hành lạc từ ( kỳ 1 )

Phiên âm

Tuấn khuyển hoàng bạch mao,
Kim linh hệ tú cảnh.
Khinh sam thiếu niên lang,
Khiên hướng nam sơn lĩnh.
Nam sơn đa hương my,
Huyết nhục cam thả phì.
Kim dao thiết ngọc soạn,
Mỹ tửu luỹ bách chi.
Nhân sinh vô bách tải,
Hành lạc đương cập kỳ.
Vô vi thủ bần tiện,
Cùng niên bất khai my.
Di, Tề * vô đại danh,
Chích, Cược* vô đại lợi.
Trung thọ* chỉ bát thập,
Hà sự thiên niên kế?
Hữu khuyển thả tu sát,
Hữu tửu thả tu khuynh.
Nhãn tiền đắc táng dĩ nan nhận,
Hà sự mang mang thân hậu danh?

Dịch nghĩa

Con chó hay, lông vàng đốm trắng,

Cổ đẹp đeo chuông vàng.

Chàng trai trẻ mặc áo cộc,

Dắt đi về phía núi nam.

Núi phía nam lắm nai hương,

Huyết thơm, thịt béo.

Dao vàng thái món ăn quý,

Rượu ngon uống hàng trăm chén.

Đời người ai sống đến trăm tuổi,

Nên kịp thì vui chơi.

Tội gì giữ nếp nghèo,
Suốt năm không mở mày mở mặt!

Di Tề chẳng có danh lớn,

Chích Cược cũng chẳng giàu to.

Sống lâu chỉ tám mươi tuổi,

Cần gì tính chuyện ngàn năm.

Có chó cứ ăn thịt,

Có rượu cứ uống cho hết.

Chuyện trước mắt hay dở đã không cần biết,

Cần gì lo cái danh xa xôi sau khi chết!
                  Bản dịch thơ của Lê Phụng

Cầy tơ tốt khoáy tốt khoang
Cổ đeo một chiếc nhạc vàng thêm xinh
Chàng trai áo ngắn phong phanh
Núi Nam ngắm hướng tênh tênh bước về
Núi Nam có lắm nai quê
Tiết thơm thịt béo hả hê mọi đàng
Món ngon bát ngọc dao vàng
Rượu tăm trăm chén nào màng tỉnh say
Đời người trăm tuổi mấy ai
Kíp thời hành lạc kẻo mai xuân tàn
Giữ chi nếp sống nghèo nàn
Quanh năm quần quật làm ăn ngập đầu
Di Tề nào có danh cao
Lại coi Chích Cược có giầu hơn ai
Tám mươi tuổi đà sống dai
Ngàn năm tính chuyện đường dài uổng công
Còn cầy còn miếng dồi ngon
Còn be rượu trắng ta còn bữa say
Mất còn trước mắt nào hay
Ngàn năm danh lợi lão đây cóc màng
  Bình loạn ( nhân năm Tuất ) **

Cụ  Nguyễn thật  là độc đáo. Mấy nghìn năm văn học ở Việt Nam ta dễ gì tìm ra thơ hay về thịt cầy  ? Tuy nhiên vì nhân  dịp năm Tuất những ý thơ trong bài từ  HÀNH LẠC của Cụ xin để dịp khác,  những từ nào, ý nào có dính dáng đến “tuất”  mới xin … loạn bàn!.

Chăng biết bên Tây bên Tầu con chó có lắm tên không. Ở ta có lúc nó là con chó, con má, con cún, nho nhã thì gọi là con khuyển… và đặc biệt  khi nó  được gọi là con cầy. Sự phân biệt ấy là có dụng ý. Chữ “cầy”  là tiếng gọi con chó khi đem làm thịt , hay thịt của con chó, là tiếng gọi con chó trong “tư cách” là thực  phẩm. Ta không thể tìm trên con phố dài cả nghìn mét ở Nhật tân ( Hà nội )  một thời trước  đây đã có vô vàn cửa hàng cửa hiệu có cái nào mang tên “Thịt chó” đâu , mặc dầu dẫy phố này chỉ toàn bán thịt chó. Ta nuôi chó, nhưng ta ăn thịt cầy ! Tại sao  con bò, con dê ,  con lợn …cùng một loài gia súc bốn chân; trên tròi hàng trăm loài chim chóc ; dưới nước hàng trăm loài thúy sán  khi làm thịt hay thịt của chúng ta lại không đặt tên gọi khác ?. Ây là vì miếng thịt chó ta phải gọi là thịt cầy để  nó không tục, để nó mới thanh , ta mới dám bỏ vào mồm! Con chó, dân ta ai cũng biết nó ăn … tạp lắm. Chó nó ăn cái ấy, mình lại đi ăn chó à? Ăn là phải ăn cầy cơ! Trước khi ăn phải thăng cấp cho nó. Đồ chó! tởm quá, không xơi được; nhưng cầy thì xơi được!.

Trở lại thịt cầy trong bài từ ‘Hành lạc’.  

Cầy to tốt khoáy tốt khoang

Món ngon bát ngọc dao vàng

Rượu tăm trăm chén nào màng tỉnh say

 Còn cầy còn miếng dồi ngon

Còn be rượu trắng ta còn bữa say .

 Nghe tả thế này đến Diêm vương cũng phải gạt đi: “Thôi thôi đừng nói nữa , ta cũng đang… thèm đây này !  Chả thế mà nhắm bữa thịt cầy, Cụ Nguyễn hứng khởi đến mức “Mất còn trước mắt nào hay  / Ngàn năm danh lợi lão đây cóc màng ! Cụ vừa  “hiện thực” vừa  “lãng mạn ” Bản dịch hay nhưng có câu này không sát nghĩa : “Hữu tửu thả tu khuynh ( Có rượu cứ uống cho hết.) mà dịch là Còn be rượu trắng ta còn bữa say . Câu thứ 8 Cụ  đã viết “Mỹ tửu luỹ bách chi (Rượu ngon uống hàng trăm chén), uống cả trăm chén mà lại dùng be thì cần bao nhiêu be cho dùng chén hạt mít!  Dân nhậu đớp thịt cầy ai lại dùng “ be ” nghe nó nho nhã quá , mà cũng cổ lỗ quá. Mạn phép, mình  điều chỉnh cái khẩu khí lại một chút cho hợp thời, hợp cảnh . Chẳng hạn: Thịt hấp với món dồi ngon / Đầy can cuốc lủi ta cùng …  dzô … dzô .. / Dở hay  trước mắt cóc lo. /  Ngàn năm danh lợi  chuyện… bò trắng răng

Lại nói về lòng yêu thịt cầy của ngươi dân nước ta, có phải yêu  thit cầy là nhất không? Yêu món thit cầy là không phân chia  giới tính, tuổi tác , đẳng cấp trên dưới, không phân chia giai cấp , không phân biệt quan điểm chính trị tả / hữu … Đó là ý kiến gần như của toàn dân, từ trên xuống dưới

 Trên, không dám tính các bậc trên nhất vì không có “tư liệu’, chỉ dám tính từ bậc Cụ Nguyễn . Là con một  quận công , tể tướng, hai anh cũng đều làm quan to, tài danh nổi tiếng một thời. Trong dinh đàn hát, yến ẩm quanh năm, Món ngon vật lạ  sơn hào hải vị không thiếu thứ gì. Ra ngoài  thì cụ cầm đầu sứ bộ, đi tới đâu được nghênh tiếp trọng thể, tới dó, ăn uống thừa mứa : “… Quân bất kiến sứ thuyền triêu lai cung đốn lệ? Nhất thuyền nhất thuyền doanh nhục mễ/ Hành nhân bão thực tiện khí dư/ Tàn hào lãnh phạn trầm giang để…” ( Trích trong Thái bình mại ca giả – Bắc hành tạp lục. Bốn câu trên có nghĩa: Chẳng thấy cái lệ cung đốn cho thuyền sứ mỗi buổi sáng đó sao? Hết thuyền này tới thuyền khác chở đầy nào gạo nào thịt đến. Người ăn không hết, phải đổ đi. Canh thừa cơm nguội trút cả xuống lòng sông.) Dọc đường đã thế, đến chiêu đãi của triều đình thì có mà phải biết! Thế mà có lúc Cụ không hề nghĩ đến nem công chả phượng, đến các thứ cao lương mỹ vị nào, Cụ lại nhớ, lại chỉ ao ước một bũa thịt cầy.

Dưới, gần như dân gian  khắp nước ta thuộc  hoặc đã nghe: Sống trên đời ăn miếng dồi chó/ Thác xuống âm phủ biết có hay không? Thấy chưa! Thịt chó không như các thứ thịt khác trên thế gian. Ăn mọi thứ thịt khác, bất quá tấm tắc khen ngon,  khoái khẩu, tuyệt hảo … Còn ăn thịt chó thì vừa ăn vừa âu lo  hỏi trời:  thác xuống âm phủ biết có hay không ? Cái thảng thốt thác xuống âm phủ, chịu khó ngẫm nghĩ, rồi lại chịu khó tra cứu xem trong kho tàng văn học nước ta tự cổ chí kim có câu tán tụng thứ thịt nào khác  mà thiết tha da diết đến thế hay không? Quái lạ, quái lạ thật. Hà tất phải rên lên, phải viện dẫn đến cả cái sống cái chết, đến cả dương gian với âm phủ về món thịt cầy , sao mà thống thiết vậy hả Trời? Thịt cầy là vạn tuế, vạn vạn tuế !

Viết thêm

Viết tếu táo xong lại có cái gì áy náy. Ta biết Nguyễn Du  còn có bài Điếu khuyển :

Tuấn mã bất lão tử

Liệt nữ vô thiện chung

Phàm sinh phụ kì khí 

Thiên địa phi sở dung

Niệm nhĩ thuộc sở súc

Dữ nhân mao cốt đồng

Tham tiến bất tri chỉ

Vẫn thân hàn sơn trung

Vẫn thân vật thán uyển

Sổ thí vô toàn công  

(Dịch nghĩa:  Khóc chó. Ngựa hay không chết già/ Người trinh liệt không chết yên lành / Phàm người sinh ra có khí phách khác thường / Trời đất không có chỗ dung  thân / Nghĩ thương mày thuộc giống gia súc / Lông xương cũng  giồng như với loài người/ Chỉ tiến không biết dừng/ Bỏ mình trong núi lạnh / Liều thân mình không hề oán hận / Bao lần thử sức không thành công)

Tấm lòng thương của Nguyễn Du đối với con chó thật là lạ (hay ông tự thương mình một cách cực kỳ kín đáo?). Địa vị con chó ở nước ta thấp, rất thấp, bị khinh bỉ, bạc đãi, Cái gì xấu xa nhất thì dồn cho nó: Ngu như chó, bẩn như chó… Nuôi thì cho ăn đói (vì thế chúng mới phải ăn bẩn). Ngủ thì ỏ ngoài hè ngoái sân mặc cho mưa gió nắng nôi, rét mướt. Hình như không có ở nơi nào loài chó lại kém may mắn như thế. Thế mà Nguyễn Du viết“Thổ súc dữ nhân mao cốt đồng”. (Lông xương cũng giống như với lòai người). Thương đến thế thật là thương đến tận cùng, dễ có mấy người? Thấy xác con chó chết trong núi, không cần biết là của ai, mà động lòng than thở như vậy, đời nay dễ có mấy người? Lại còn khen: Vẫn thân vật thán uyển (Liều mình mà không có một lời oán hận). Thương và trọng chú chó đến thế là cùng! Đọc câu “lông xương cũng giống như với loài người” ông thương con chó chết hay ông thương cho một … “kiếp chó’’ .

Ông là người có nhiều ẩn ức. Đọc văn thơ của ông người đọc dễ tìm thấy hoặc liên tưởng đến những ẩn dụ . Qua nhiều bài thơ chữ Hán cũng như thơ nôm Nguyễn Du thể hiện  rất nhiều về những điều này. Xin xem lai câu thơ thời gian ông đi sứ, ông được cung ứng thực phẩm “Người ăn không hết, phải đổ đi. Canh thừa cơm nguội trút cả xuống lòng sông. Đọc những câu này có ai không liên tưởng đến những người thiếu đói cháo rau cũng không có mà ăn?  Ông kể sự “hành lạc” của ông như thế đó. Một thí dụ khác bài Văn tế thập loại chúng sinh : Cõi âm như được tái hiện về cõi dương trong xã hội đương thời bằng hiện thân của các loại cô hồn  thập lọai chúng sinh, có phải đó là bài văn tế sống ….Nhiều bài như thế lắm   có thể thấy ông viết điều này để người đọc liên tưởng đến một điều khác.

Thế thì chuyện “hành lạc” đâu có phải chỉ là chuyện hưởng lạc?  Vì ngay trong nghĩa hẹp « hành lạc » cũng mang mầu săc khác nhau: Hoặc là sự phóng túng trong tình cảm và hưởng thụ trong hành động , hoặc là sự thoát li (tuy có tiêu cực) nhằm phản ứng lại xã hội . Người đời thường thì “hành lạc” để hưởng thụ; còn Nguyên Du “hành lạc” đã gởi đến chúng ta bao nhiêu nỗi niềm . Nguyễn Du “hành lạc” có phải để suy  ngẫm và rút ra những thể nghiệm khác mà  những cái đó lại lấn át cả sự  hưởng thụ và cao hơn rất nhiều lạc thú chăng ?.

Để phân tích , nghiên cứu sự nghiệp văn học nói chung và dòng thơ hưởng lạc nói riêng của Nguyễn Du, xin dành cho các nhà nghiên cứu, các nhà phê bình.

————————

*     DI, Tề : Bá Di và Thúc Tề hai danh nhân TQ đời nhà Chu .    .Đạo Chích hai tên trộm cắp nổi tiêng TQ..           Trọng thọ ; 70 tuổi  ( 60. 80, 90 tuổi là hạ, thượng . đại thọ )

**  [Phỏng theo ý của Bùi Giáng(1926 –1988) Xin phép vã xin cáo lỗi cùng nhà thơ]

 

 

Add a Comment

Your email address will not be published.