Paphiopedilum micranthum T. Tang & Wang

Paph. micranthum

Paphiopedilum micranthum T. Tang & Wang

Cùng loài

Paphiopedilum globulosum Z.J. Liu & S.C. Chen

Dẫn nhập

Paphiopedilum micranthum Tang & Wang, đương nhiên là một trong những khám phá quan trọng các loài lan của Trung quốc. Những đánh gia này được dựa trên cây lan do Wang sưu tập được ở giữa Malipo với Xichou trong vùng đông nam tỉnh Yunnan. Có một vài loài đã được tìm thấy nhưng không thích đáng để mang cái tên Paph. micranthum. Đương nhiên hoa của loài Paph. micranthum thì to nếu ta so sánh tương quan với cái cây của nó. Bản mô tả ở dưới dựa trên một cây mẫu đã bị khô, đó có thể là một cây hay chỉ là một chồi non, hoặc là một cây với hoa nhỏ khác thường. Mặc dù, chúng được cho là mộ loài Paphiopedilum khác (như là Paph. bougainvilleanum, Paph. javanicum Paph. armeniacum) được báo cáo là thỉnh thoảng cho ra những bông hoa nhỏ, nhưng những dịp như vậy vẫn chưa được xác nhận, và hầu hết những báo cáo này đều đem lại kết quả không đúng.

Nguồn gốc tên gọi

Cái tên micranthum có nghĩa là hoa nhỏ. Đây là một sự chuyển đổi không đúng dựa trên một cây mẫu (một cây thảo mộc đã khô). Phần mô tả lần đầu nói rằng, “… mang một hoa đơn lẻ rất nhỏ”

Mô tả

Paphiopedilum micranthum là một cây thuộc họ thảo mộc và mọc trên nơi có lá cây mục. Cây này thuộc loài thân rễ được bò lan với bộ rễ mập mạp. Mỗi chồi có từ 4 đến 5 lá như cái lưỡi nhỏ, đầu nhọn và dầy mọng, cả hai mặt lá đều không có lông. Mặt trên của lá có vằn màu xanh đậm xen lẫn xanh lợt, mặt dưới của lá có những đốm màu đỏ tía. Lá dài 14 cm và rộng 2,5 cm. Vòi hoa mọc thẳng đứng, dài tới 26 cm, đầy lông mịn, và thông thường thì chỉ có một hoa. Lá bắc gập đôi lại, màu xanh lá, có đốm đỏ tía, dài 1,2 cm và rộng 7 mm. Bầu nhụy dài khoảng 4 cm, màu xanh sáng với những đốm màu đỏ tía ở chóp. Hoa có vẻ lớn so với cây, khởi đầu từ những chỗ phồng lên có màu hồng cho đến cái môi màu hồng pha trắng, dài tới 8,5 cm và rộng 6,5 cm. Các cánh hoa và các lá đài đều nhỏ so với môi của nó. Lá đài sau hình ô-van rộng, đầu nhọn nhiều hay ít, dài đến 3 cm, rộng 2,5 cm. Mặt trong của nó đẹp lạ thường, mặt ngoài có lông ngắn. Mép cuộn lại và có lông mịn. Lá đài kép có hình ô-van đến hình bán cầu, đầu nhọn và cũng có thể không nhọn, dài 3 cm và rộng 2,8 cm. Các cánh hoa cũng nhọn hoặc không, dài 3 cm, rộng 3,5 cm. Các lá đài và cánh hoa màu trắng, đôi khi lại ánh lên màu xanh lá ở chân, bao phủ một màu hồng và theo chiều dọc có những sọc màu đỏ tía. Môi trông rõ là hình trứng ngược, dài 6,5 cm, rộng 5,5 cm, và mỗi mặt ở phần chân trông như có một vết lõm hình tam giác. Phía trước của những chỗ lõm vào này là một tấm nhịp lép dài 1,5 cm, chiều ngang chừng 7 mm. Mặt trước màu trắng đến hồng phớt với những chấm màu hạt dẻ, khu vực hình tam giác của chỗ đầu nhọn màu vàng.

Phân bố và thói quen sinh trưởng

Cây mẫu được sưu tập ở vùng đông bắc tỉnh Yunnan, theo như phần ghi chép về loài thảo mộc là cây Paphiopedilum micranthum. Những nguồn tài liệu đáng tin cậy thì nói rằng loài này mọc ở vùng tây nam thuộc tỉnh Guizhou, gần tỉnh Xingyi, và theo giải thích của Cribb (1998) thì cây được ông ta minh họa là var. eburneum được thực hiện ở vùng tây bắc tỉnh Guangxi. Theo Fred Mark và các nguồn khác từ Trung quốc, những cây lan này được tìm thấy ở rừng tạp trên độ cao 1.000 đến 1.500 m. Nhưng rồi sau đó Dr. Jack Fowlie lại báo cáo rằng, tìm thấy chúng trên độ cao 550 đến 850 m ở sườn phía đông các đèo giữa triền dốc và chung quanh đỉnh núi. Ở đây gió thổi mạnh ở vùng thấp giữa các núi. Ngay cả trong mùa khô, mây luôn hình thành ở sườn phía đông nam của các dẫy núi và buộc tụ lại giữa hai khe núi, bổ sung thêm độ ẩm rồi ngưng tụ lại. Các cây lan mọc trên nền đất và nơi có đá vôi tạo thành những khe trong đá.

Mùa hoa

Paphiopedilum micranthum ra hoa vào giữa tháng Hai và tháng Sáu

Các biến loài và biến thể

Paphipedilum micranthum có khả năng biến thể với màu sắc của hoa, và cũng có một số biến loài đã được xác định trong khi nuôi trồng. Gần đây nhất là được mô tả trong loài Paphiopedilum micranthum var. oblatum (Z.J. Liu & S.C.  Chen trong cuốn Acta Phytotaxonomica Sinica, 2002), thực ra cũng không có gì ngoài sự biến đổi trong quá trình nuôi trồng như vậy.

Paphipedilum micranthum forma albo-flavum (Braem) Braem

Trong cuốn Giống Paphiopedilum – Lịch sử tự nhiên và nuôi trồng (tập 1:91 (1998)

Cùng loài

Paphiopedilum micranthum forma glanzeanum Gruβ & Röth

Cây albino được mô tả lần đầu vào năm 1994 bởi Braem trong cuốn Những cây lá nhỏ của Viện nghiên cứu Schlechter, số 1:3-4. Hoa của cây này có màu trắng, phần của lá đài và các cánh hoa cũng như phần nhịp lép ánh lên màu vàng, các lá đài có vân xanh lá./.

Paph. micranthum forma albo flavum

Hình trên: Paph. micranthum forma albo flavum

Add a Comment

Your email address will not be published.