Paphiopedilum barbigerum

P. barbigerum 2

Paphiopedilum barbigerum Tang & Wang

Cùng loài

Paphiopedilum insigne var. barbigerum (Tang & Wang) Braem

(?) Paphiopedilum veijva rutianum Gruβ & Röllke

Dẫn nhập

Paphiopedilum barbigerum được Tang & Wang mô tả dựa trên một cây đã bị héo khô do nhà thực vật học người Pháp có tên là Cavalerie & Fortunat sưu tầm ở tỉnh Quý Châu, miền tây nam Trung quốc, không được đề cập đến trong Orchidceae, mọi người khá lúng túng khi cho rằng Paph. barbigerum là “có quan hệ gần gũi với Paph. equirolei Schlechter”. Cây Paph. barbigerum mẫu của họ, chỉ ra rằng những khác biệt giữa hai loài là rất rõ. So với Paph. equirolei thì Paph. barbigerum thấp kém về mọi phương diện. Cây lan này có quan hệ rõ rệt với Paph. insigne, và không lấy gì làm ngạc nhiên khi mà karyo (?) của hai loài này là tương tự như nhau (theo Karasawa & Aoyama, 1998). Chính vì vậy, việc phân loại này đã không được tất cả tác giả chấp nhận là một thực thể riêng biệt dưới cấp độ một loài. Thí dụ, Braem (1988) đã coi Pah. barbigerum là một biến loài của Paph. insigne, và Cribb (1987), mặc dù trong bản kê phân loại coi như một loài riêng biệt, ông ấy đã viết: “Đặc biệt là, miếng nhụy lép của nó phẳng lại có u lồi, và hình thái học tổng quát của hoa gợi lại rất rõ hình thái học của loài lan nhỏ, Paph. insigne”. Mặc dù người ta đặt tên cho chúng theo đặc điểm những cái lông cứng ở phần chân của mỗi cánh hoa, đặc tính này cũng có thể thấy ở những phân giống khác như là  Paph. charlesworthii, Paph. coccineum, Paph. Helenae, Paph. herrmanniii, Paph. insigne, Paph. villosum vân vân.

Từ năm 1988 có một cặp được thu thập trong thiên nhiên, tạo được đồng thuận trong cách miêu tả của Paph. barnigerum , trong số này có một cây đã xuất hiện thể albino thuần túy.

Paphiopedilum barbigerum có thể khác với cách phân loại khác trong loài phức hợp Paph. insigne, ngoại trừ Paph. coccineumPaph. helenae, vì chúng có kích cỡ rất nhỏ, lá rất hẹp, vòi hoa rất ngắn và hoa của chúng nhỏ, lại có miếng nhụy lép hình tam giác đến hình nửa trái tim, đồng thời lá đài sau không có các chấm đốm. Khác với Paph. helenae ở chỗ cánh hoa của chúng không gợn sóng, khác với Paph. coccineum ở chỗ hình dạng miếng nhụy lép và màu sắc của lá đài sau. Dù những sự khác biệt này có đủ lý do để cho rằng chúng được xếp loại riêng thì đó cũng chỉ là một ý tưởng.

Paphiopedilum vejvarutianum được cho là thu thập được ở Thailand trên độ cao 500 đến 700 m trên những tảng đá phủ rêu và được cho là chúng được nhập vào châu Âu cùng với Paph. gratrixianum. Bản mô tả của Gruβ & Röllke đã kết luận cũng như những bức ảnh cho thấy có sự biến thể của cây lan, điều đó làm cho chúng tôi đánh dấu hỏi về giá trị của sự phân loại này thành một loài. Có một số cây rất giống với cây Paph. barbigerum mà chúng tôi trình bày ở đây.

Nguồn gốc tên gọi

Sở dĩ có tên Paphiopedilum barbigerum là vì ở phần chân của mỗi cánh hoa đều có một chùm lông (râu).

Mô tả

Paphiopedilum barbigerum là một loài biểu sinh thuộc họ thảo mộc, sinh trưởng trên vùng đất nhiều mùn. Mỗi nhánh cây cho 4 đến 6 lá, lá mọc xiên, hẹp, đầu tù, và đỉnh có ba răng cưa rất nhỏ. Lá dài 8 đến 20 cm, rộng 0,8 đến 1,8 cm, màu xanh không đồng nhất. Vòi hoa thẳng đứng, dài tới 16 cm, thường chỉ mang một hoa. Lá bắc hình ê-lip, hơi nhọn đến tù, dài 1,6 đến 2 cm. Hoa dài tới 6 cm và rộng khoảng 7,5 cm. Lá đài sau trắng, phần chân có màu xanh, mặt sau có đường gân nổi, đầu tù, mép quăn về phía sau. Lá đài sau rộng khoảng 3,2 cm, cao tới 3,6 cm, khi trải rộng ra thì chúng có hình bán cầu. Lá đài kép hình ê-lip, đầu tù, dài chừng 3,0 cm, rộng 1,9 cm, hình trứng, màu xanh trắng, có thể nhiều hoặc ít vân chạy theo chiều dọc. Các cánh hoa hơi giống cái lưỡi người,tù đầu gần như hình bốn cạnh, dài 4,4 cm, rộng 1,2 cm, màu nâu ngả xanh, có những đường vân đều nhau, riềm có một khoảng hẹp màu xanh, đồng thời gợn sóng toàn bộ chiều dọc, nhiều lông mịn. Môi có ba thùy, mặt ngoài không có lông. Các thùy bên gập vào trong. Thùy chính tạo thành một cái túi sâu, dài chừng 4 cm, rộng 2,4 cm, màu nâu với những vân màu đậm hơn. Môi tạo thành một góc 90 độ với vòi hoa. Miếng nhụy lép có hình tam giác tù đầu đến hình nửa trái tim, dài 6 đến 9 mm, rộng 8 đến 11 mm, tính theo cạnh dưới. Miếng nhụy lép có lông tơ, màu vàng sáng với một “răng” màu vàng lưu huỳnh hoặc xanh lá gần như ở dưới tâm.

Phân bố và thói quen sinh trưởng

Tại miền tây bắc Trung quốc. Lần đầu tiên phát hiện ra cây này tại tỉnh Quý Châu, dọc theo rìa bình nguyên Quý Châu. Không có thông tin gì thêm về thói quen sinh trưởng của chúng khi người ta sưu tập được chúng. Những lần sưu tập gần đây, được cho biết là tìm thấy chúng dọc theo biên giới giữa Quý Châu và Quảng Tây, và chỉ biết là chúng sống trên độ cao 700 đến 900 mét.

Mùa ra hoa

Trong nuôi trồng ở trang trại thì thấy chúng thường ra hoa từ tháng Mười đến tháng Mười hai

Biến loài và biến thể

Paphiopedilum barbigerum hình như khá ổn định về kích cỡ hoa và màu sắc. Chỉ tự nó biến thể sang thể albino.

Paphiopedilum barbigerum forma aureum (Hua) Braem, Baker & Baker

Paphiopedilum barbigerum forma aureum khác với cây nguyên gốc của nó về màu hoa là thuần vàng. Nhưng cũng đừng lầm lẫn với Paph. helenae, được phân loại cùng trong một nhóm này. Cách nhận biết không khó vì Paph. barbigerum có các cánh hoa gợn sóng, trong Paph. helenae thì không./.

 

Add a Comment

Your email address will not be published.