Paphiopedilum gratrixianum

P. gratrixianum

Paphiopedilum gratrixianum (Master) Guillaumin

Tên cũ

Cypripedium gratrixianum Master (không có Williams)

Cùng loài

Cordula gratrixianum (Master) Rolfe

Paphiopedilum affine De Wildeman

Paphiopedilum cornutatum Z.J. Liu, O. Gruβ, & L.J. Chen

Paphiopedilum guangdongense L.J. Chen, Z.J. Liu, Y.Y. Li, & L.Q. Li

Paphiopedilum stenolomum Z.J. Liu, O. Gruβ, & L.J. Chen

Paphiopedilum xwuliangshanicum Z.J. Liu, O. Gruβ, & L.J. Chen

Paphiopedilum villosum var. gratrixianum (Master) Braem

Paphiopedilum villosum var. affine (De Wildeman) Braem

Dẫn nhập

Paphiopedilum gratrixianum có quan hệ rất gần với Paph. insignePaph. villosum. Nhìn tổng quát thì hoa của loài này khá tương đồng với hoa của Paph. villosum, và các cánh hoa của chúng lại mở rộng về phía ngọn, phần chân thì thu hẹp lại, đối chiếu các thông số thì rõ là khác các cây của Paph. villosum và cũng khác với thông số của Paph. insigne. Đối với Paph. exul, hoàn toàn có thể chia ra theo thói quen sinh trưởng, lá của chúng cũng như sự khác nhau về hình dạng của lá đài và túi. Đối với Paph. villosum có thể nhận ra sự khác biệt vì chúng không có lông tơ mịn, dài ở vòi hoa và bầu nhụy.

Chúng ta cũng không dễ bị nhầm lẫn với các cây trùng tên được xuất bản trong cuốn The Orchid Album, tập mười một (bởi Warner & Williams, 1897). Sau này khái niệm này đại diện cho một loài lan lai nhân tạo giữa Paph. bellatulum với Paph. Enfieldense (hookerae x lawrenceanum), cách hiểu đúng là Paph. James Buckingham, đó là cái tên được Hollington đăng ký vào năm 1896.

Nguồn gốc tên gọi

Đặt tên gratrixianum là để vinh danh Mr. S. Gratrix ở Manchester, nước Anh

Mô tả

Paphiopedilum gratrixianum là một loài thảo mộc, mọc ở những nơi có lá cây mục. Những cây này mọc thành từng bụi, mỗi cây có bốn đến tám lá hẹp, mọc chếch lên trên, dai như da, không có lông, đỉnh lá nhọn hoặc chia làm ba thùy rất nhỏ. Lá có thể dài tới 30 cm, rộng từ 2 đến 4 cm. Lá có màu xanh, đốm tím ở phần chân và ở mặt dưới. Mặt trên có một khe rãnh ở dọc theo giữa lá, và lồi lên ở mặt dưới, đến chân là, rãnh này làm cho lá như gập đôi lại. Hoa lớn, đo chiều ngang ở điểm rộng nhất đạt từ 7 đến 12 cm. Hoa hình thành trên vòi hoa có khi dài đến 35 cm. Ở gần phần đầu lá có lông màu tím. Lá bắc hình mũi mác hẹp đến dạng trứng ngược, đầu nhọn hoặc tù, màu xanh với những đốm màu tím đỏ, dài 3 đến 4,5 cm, rộng 1,2 đến 1,5 cm mặt lá nhẵn. Bầu nhụy, nếu ta cắt ngang thì có hình tam giác, màu xanh xỉn và che phủ bởi một lớp lông ngắn màu tím đỏ. Nếu tính cả cái cuống của nó thì có chiều dài khoảng 3,5 đến 5 cm. Lá đài sau hình ô-van hoặc hình ô-van rộng, mép lượn sóng, đầu tù, dài 4,8 đến 5,2 cm, rộng 4,4 đến 4,6 cm, mặt ngoài của lá đài phủ một lớp lông ngắn màu tím đỏ. Phần chân của lá đài hẹp, từ chân đến hai phần ba lá đài màu xanh lá. Phần trên cũng như riềm của lá đài màu sứ trắng, toàn bộ mặt lá đài giống như lưng ngựa với những đốm hình vòng tròn khá lớn. Lá đài kép nhỏ hơn nhiều so với lá đài sau, thông thường ngắn hơn hoặc cùng lắm cũng chỉ tiếp cận đến mũi hài; hình dạng của lá đài kép là ê-lip tới hình trứng ngược, đầu nhọn, dài 3,5 đến 5 cm và rộng khoảng 2,5 cm. Màu của lá đài kép là xanh có một ít đốm màu tím đỏ, mặt ngoài phủ một lớp lông ngắn màu tím đỏ. Các cánh hoa phẳng, hơi con vào phía trong, đầu cánh tù hình trứng ngược, dài 4,5 đến 5,2 cm, rộng 1,8 đến 2,5 cm, ở riềm trông như sáp, và một chút lông tơ. Các riềm ngoài đối xứng nhau. Các cánh hoa ánh lên với màu xanh xỉn hoặc vàng, có những đường vân màu nâu tím. Màu của túi (hài) cũng vậy nhưng màu sắc đậm đà hơn, hình dáng của túi như một chiếc mũ két để ngửa, phần đầu gập lại, hai bên trông như tai gấu. Kích thước tổng quát của túi, dài 4 đến 4,2 cm, rộng 2,4 đến 3 cm. Phần chân của miếng nhụy lép có lông lơ thơ. Bề mặt của miếng nhụy lép hơi tròn đến hình bán cầu, dẹt và có màu vàng, dài, rộng chừng 11 mm, một nửa miếng nhụy lép ở phần chân có một lớp lông màu tím đỏ.

Phân bố và thói quen sinh trưởng

Paphiopedilum gratrixianum được biết đến là từ vùng đông nam nước Lào (tỉnh Attopeu), gần Pak Song, ngay sát biên giới với miền trung Việt Nam và từ một địa phương duy nhất thuốc miền bắc Viện Nam (vùng Dam Dao, địa giới giữa tỉnh Vĩnh Phúc và Thái Nguyên). Các cây lan này thường mọc nơi đất có mùn trên sườn núi, trong những vùng rừng lá lớn, trên độ cao 850 đến 1.200 m.

Mùa ra hoa

Trồng tại vườn thấy chúng ra hoa từ tháng Chín đến tháng Tư. Trong tự nhiên ở Việt Nam, chúng ra hoa từ tháng Mười qua tháng Mười hai.

Biến loài và biến thể

Paphiopedilum gratrixianum có rất nhiều biến loài, và vì thế mà chúng ta không ngạc nhiên có khá nhiều biến loài được mô tả là những thực thể ở cấp độ chủng loại khác nhau./.

Add a Comment

Your email address will not be published.