Paphiopedilum fairrieanum (tiếp theo và hết)

P. fairri

Paphiopedilum fairrieanum (Lindley) Stein (Tiếp theo)

Nguồn gốc tên gọi

Cái tên fairrieanum là để tôn vinh ông Fairrie, một người say mê lan.

Trong hầu hết các tài liệu xưa, tên loài này khi đọc thì người bỏ bớt đi một chữ “r”, có lẽ vì rằng trong bản mô tả của Lindley, tên của ông Fairrie bị phát âm sai (chẳng biết là tại tác giả hay tại nhân viên đánh máy). Cuối cùng nó cũng được khẳng định là khi đọc tên ông Fairrie thì phải có hai “r”. Trong một số tài liệu, lỗi này đã được đính chính.

Mô tả

Paphiopedilum fairrieanum là loài lan nhỏ, mọc thành cụm, là loài thảo mộc, lùn và thường mọc ở những nơi có lá mục. Mỗi thân cây cho bốn đến tám lá. Lá hình thuôn giống lưỡi đến hình thẳng giống lưỡi, đầu tù hoặc lượn tròn, rất hiếm khi có ba răng cưa, dài 7,5 đến 27 cm, rộng 2,5 cm, có một màu chung là giữa xanh với xanh xỉn, thỉnh thoảng có đốm mờ. Mặt dưới của lá có màu còn xỉn hơn, ở đó sống lá lộ rõ, mép lá có những răng cưa nhỏ cho đến tận đầu lá. Vòi hoa cao từ 10 đến 20 cm (rất ít khi cao hơn), màu xanh đậm, phủ một lớp lông cứng màu đỏ tía, thường trên nó chỉ có một hoa, rất ít khi có hai hoa. Lá bắc hình ê-lip, đầu tù, dài 1 đến 4 cm, rộng 0,8 cm, màu ngả trắng, bên ngoài phủ một lớp lông đỏ tía. Hoa trông rực rỡ, có thể nhỏ nhưng cũng có thể lớn, và thường thì chỉ cao 6 đến 7,5 cm, đo chiều ngang được 4 cm. Lá đài sau dài 3,5 đến 8 cm, rộng 2,5 đến 7 cm, hình ê-lip đến hình trứng, đầu tù, có lông tơ, riềm gợn sóng, lên tới đỉnh thì chia làm hai thùy và cuộn về phía sau. Mặt sau của lá đài có lông tạo thành mộ cái sống lá. Màu lá đài sau thường từ trắng  đến trắng ngả xanh, phần chân màu chuyển sang xanh vàng xỉn và có những vân màu đỏ tía. Lá đài kép nhỏ hơn một chút, dài chừng 2,5 đến 3,5 cm và rộng 1,7 đến 2,5 cm, hình ê-lip đến hình ô van, đầu cánh tròn, có những vân đỏ tía trên màu nền xanh sáng hoặc trắng. Các cánh hoa hình thuôn dài đến hình mũi mác, hơi giống chữ S, dáng cong xuống với đầu nhọn, dài từ 4 đến 5 cm, rộng 1 đến 1,5 cm, đỉnh của cánh hoa hơi uốn cong về phía sau, viền quanh mép có một lớp lông hơi đen, màu của riềm cánh hoa như một giải màu đỏ tía, mặt cánh hoa có những sọc màu trắng xanh đến màu trắng vàng, chạy theo chiều dọc. Thùy chính của túi như một cái túi sâu, nơi hẹp tạo thành một góc nhọn đột ngột và ngắn, túi dài chừng 3 đến 4 cm, rộng 1,6 đến 2,3 cm, với một khe hở (miệng) rộng. Màu sắc của hài đôi khi là xanh ngả nâu với những đường vân màu đỏ tía, đôi khi là xanh xám hoặc màu ô-liu, nhưng màu sắc của các đường vân lúc nào cũng đậm hơn. Hai thùy bên cuộn vào trong, có màu trắng kem, thường có những chấm đỏ. Miếng nhụy lép có hình mặt trăng đến hình ê-lip, giữa hai cái sừng hình lưỡi liềm là một răng cưa ở đáy. Màu của nhụy lép là trắng ngà đến vàng, mặt trước như một giải băng màu đỏ tía, chiều dài của nhụy lép khoảng 0,9 cm, rộng 0,7 cm.

Phân bố và thói quen sinh trưởng

Phân bố ở vùng đông bắc Ấn độ và vùng phụ cận. Paphiopedilum fairrieanum mọc ở Ấn độ, ở Sikkim và Arumachal Pradesh và miền nam Bhutan. Chúng được tìm thấy, hầu hết trên triền phía đông, ở độ cao 1.200 đến 2.200 m. Chúng mọc ở những môi trường khác nhau, kể cả ở vạt cỏ sườn đồi, ở đó có đá vôi, hoặc mọc trên đá trong rừng sồi, hoặc trong cỏ mọc ở các khe đá gơ-nai, đá dolomite trên các bờ sông bờ suối.

Mùa hoa

Trong các vườn trồng, mùa ra hoa của Paph. fairrieanum trải dài từ tháng Chín đến tháng Ba sang năm; song cũng có trường hợp chúng ra hoa vào các tháng còn lại trong năm. Trong thiên nhiên, chúng ra hoa vào mùa đông.

Biến loài và biến thể

Mặc dù Paphiopedilum fairrieanum, người ta thấy trước hết, là một loài không có biến thể, trước đây người ta mô tả rằng kích thước hoa và màu hoa của chúng có sự khác nhau trong cùng loài. Sự khác nhau lớn nhất đã được nói đến là dựa trên sự khác biệt chủ yếu ở từng cây đơn và đó chỉ là “sự quan tâm có tính hàm lâm” mà thôi. Hầu hết chưa thấy có sự phân biệt một cách có giá trị về mặt khoa học. Như rất nhiều loài khác trong phân giống Paphiopedilum, chỉ có một biến hiện còn đang là sự quan tâm của mọi người, đó là dạng albino.

Paphiopedilum fairrieanum forma bohlmannianum (Matho) Braem

Đây là một albino được biết đến nhiều nhất, chúng được mô tả lần đầu là Paph. fairrieanum var. bohlmannianum vào tháng Bảy 1942. Lúc đó người ta thường lầm là “Paph. fairrieanum var. album” trong chu kỳ nuôi trồng. Nhưng, hoa của chúng lại không trắng, mà là vàng đến xanh vàng với những vân có màu sẫm hơn. Có một số cây vô tính của thể albino thực sự này. Các cây đó thường nhỏ hơn các cây gốc và thường khá khó trồng. Không may là, Hội hoa lan Hoa kỳ đã tặng giải thưởng cho cây được đặt tên là “var. album”, được mô tả là Paphiopedilum fairrieanum var. flavum.

Paphiopedilum fairrieanum forma bohlmannianum được đặt theo tên ông Ernst Bohlmann, ông ấy là chủ tịch Hội Làm vường, Đức vào thời điểm người ta giới thiệu cây này./.

Add a Comment

Your email address will not be published.