Paphiopedilum druryi

Paph. druryi

Paphiopedilum druryi (Beddome) Stein

Tên cũ

Cypripedium druryi Bedome

Đồng âm

Cordula druryi (sic.) (Bedome) Rolfe

Dẫn nhập

Paphiopedilum druryi được bà J. A. Brown phát hiện vào khoảng năm, 1865, trên “Aghusteer Hill” ở miền tây Ghats, bang Kerala, miền nam Ấn độ. Cây lan này do tướng H. Drury thuộc quân đội Anh thu lượm được. Về sau cây này được tìm thấy một cách tình cờ trên đỉnh Calcad Hill, đến tháng Giêng thì chúng ra hoa.

Paphiopedilum druryi vẫn còn rất hiếm thấy trong các bộ sưu tập. Lý do của tình trạng này là chúng rất cách biệt trong tự nhiên. Đôi khi, người ta nói rằng không còn hy vọng tìm thấy chúng trong tự nhiên, và ông Cribb vào năm 1978 đã cho biết cây mẫu Kew cuối cùng cũng đã chết và năm 1961. Mặt khác, V. & J Mammen năm 1974 cho biết đã sưu tập được các cây ở nơi chúng sinh trưởng vào năm 1972. Lời đồn đoán thường thấy lúc đó, rằng sau khi Mammen thu thập được khoảng 200 cây thì nơi cư trú của chúng bị hỏa hoạn nên không còn gì. Mặt khác, K.T. Pempahishey (1976) cho biết đã tìm thấy một số cây  ở cùng một địa điểm (nơi đã bị cháy). Cách đây ít năm, một số cây lại được tìm thấy, nơi chúng sinh trưởng cùng chỗ với Pempahishey đã tìm thấy hay không thì không ai biết. Paph. druryi ngày nay được giới thiệu là cây lai nhân tạo tại một số vườn ươm.

Những người mua quan tâm đến loài Paphiopedilum cần phải biết rằng, các cây lai tạo được giới thiệu như là “một loài nhân giống nhân tạo” từ Paph. druryi. Cây lai có tên là Paph. Winianum, là cây được lai giữa Paph. druryi với cây Paph. willosum, cây này được Veitch đăng ký vào năm 1886, cũng không khó xác định, vì phần đầu lá của chúng cuốn lại, trong khi lá của Paph. druryi thì không.

Nguồn gốc  tên gọi

Tên druryi được đặt theo tên của đại tá Henry Drury (sau đó là tướng Henry Drury, 1804 – 1883), một sĩ quan Anh quốc trường trú tại Ấn độ vào thời gian đó.

Mô tả

Paphiopedilum druryi là một loài thảo mộc. Người ta nhận ra chúng vì thân rễ của chúng cứng cáp, bò lan ra, theo đó là các nhánh cách nhau vài cm. Mỗi thân ngắn của chúng mang theo năm lá hình mũi mác đến hình cái lưỡi, lá có cạnh sắc.  Mỗi lá dài 12 đến 25 cm, rộng 2,5 đến 3,5 cm. Lá dầy và dai, mọc xiên lên trên, đầu tròn, sắc lá xanh đồng nhất, phần đầu lá không bao giờ uốn cong. Vòi hoa mọc thẳng cao đến 30 cm. Cuống hoa nhỏ, phần chân cuống màu đỏ tía, ở đó có lớp vỏ lụa màu xanh, ngắn, và một lớp lông tơ dầy. Thông thường mỗi cây cho có một hoa. Lá bắc nhỏ và gập lại, hình trứng, đầu nhọn và dài chừng 2 cm, màu xanh và được phủ một lớp lông màu đỏ tía. Hoa trông khá rực rỡ, các cánh hoa phẳng, dài 7,5 cm nếu đo chiều ngang được 5,5 cm, và hơi nghiêng. Lớp lông tơ ở mặt ngoài có màu vàng xỉn hoặc vàng ngả xanh, hoặc hoặc màu rượu chát, có những sọc và chấm màu nâu hoặc màu tím đỏ. Lá đài sau hình ê-lip cho đến hình ô-van rộng, đầu nhọn, dài 3 đến 3,8 cm, rộng 2,5 đến 3,3 cm. Phần lưng có sống gân, che phủ lên môi, mép có lông, màu vàng xỉn hoặc vàng xanh, hoặc màu rượu chát, có một vệt dài và rộng ở giữa màu hạt dẻ hoặc màu nâu hạt dẻ khá rõ, lốm đốm những lông màu gần như đen. Lá đài kép dài 2,7 đến 3,5 cm, rộng 2 đến 2,5 cm, hình trứng , đầu nhọn, đôi khi sắc cạnh, có lông mịn, màu sắc thì kém hơn lá đài sau, và thỉnh thoảng có hai sọc theo chiều dọc với màu đỏ tía rất đậm. Các cánh hoa thì vươn thằng sang hai bên chếch về phía trước, hình mũi mác đến hình cái lưỡi, dài 4 đến 4,5 cm, rộng 1,3 đến 2 cm. Mép cánh hoa có lông cứng quăn và hơi rủ xuống, đầu cánh hoa có ba răng cưa rõ rệt. Màu của các cánh hoa là màu đất đỏ, hầu hết là màu vàng kim, ở tâm có một giải băng rộng màu hạt dẻ đến màu nâu hạt dẻ, với những chấm màu đỏ tía. Cánh hoa có lông tơ , phần chân có lông màu nâu dài hơn. Môi có ba thùy, hai thùy bên cuộn vào trong và gần như hình thành một cái ống. Thùy chính tạo thành cái túi, hơi ép vào, dài 3,3 đến 4,5 cm, rộng khoảng 1,2 đến 2 cm, và hình thành cái tai. Mặt ngoài của túi có màu vàng sáng, mặt trong có những chấm ngả đỏ đến đỏ tía. Miếng nhụy lép hình trái tim ngược, phần đỉnh chia ba thùy, ba răng cưa, màu vàng đậm, ở gần tâm ánh lên màu lòng đỏ trứng, chiều dài và rộng đều từ 1 đến 1,2 cm.

Phân bố và thói quen sinh trưởng

Miến nam Ấn độ. Các cây lan này được tìm thấy ở cao nguyên Travancore và Calcad Hill, trên độ cao 1.500 đến 1.600 m. Chúng thường mọc trên đất dốc cứng và pha đá vôi, được bồi đắp thêm bởi cỏ và cành cây mục. Cây mọc dưới ánh nắng trực tiếp của mặt trời, hoặc hơi bị khuất bóng của các bụi cây và cỏ.

Mùa ra hoa

Paphiopedilum druryi ra khoảng tháng Năm, song có những cây lại ra hoa từ tháng Hai qua tháng Chín. Trong tự nhiên chúng ra hoa vào mùa xuân./.

Add a Comment

Your email address will not be published.