Paphiopedilum sangii Braem

Paph sangii

Paphiopedilum sangii Braem

Dẫn nhập

Paphiopedilum sangii được phát hiện trên hòn đảo Sulawesi và được nhà trồng lan nghiệp dư người Đức tên là Helmut Sang đưa vào châu Âu, trong bộ sưu tập đầu tiên, với cây mẫu ra hoa vào mùa xuân năm 1987. Những đặc điểm hỗn hợp  (như là lá có khảm, chỉ một hoa trên một vòi hoa, phần cuối của môi dưới có tai, và lá đài kép nhỏ hơn lá đài sau một cách rõ rệt) chỉ ra rằng loài này thuộc phân giống Sigmatopetalum Hallier. Vì hình thái học của lá đài và các cánh hoa của Paph. sangii nguyên thủy được đặt vào chương Blepharopetalum Pfitzer bên cạnh Paph. mastersianum, Paph. papuanum, và các cây của phức hệ Paph. violascens. Hơn nữa Paph. sangii khác với tất cả các dòng trong nhóm giống như venustum về kiểu phát gân nơi cái túi và đặc biệt là miếng nhụy lép lại có hình cầu. Thêm vào đó , Karasawa, Aoyama & Kamimura (1997) đã công bố rằng hình thái học của Paph. sangii tương tự như những gì có ở Paph. hookerae.

Một số cây vô tính của Paph. sangii đã được đưa về nuôi trồng. Những cây có sự phù hợp với những gì mô tả trước đây đều không thấy. Trong bộ sự tập xưa kia có một số cây cho thấy lá đài, ít nhiều có những vết khứa đối xứng ở cả hai mặt. Song dù sao, đặc điểm này không hoàn toàn ổn định. Braem ghi nhận rằng, vào thời điểm xuất bản trước đây, khi đó người ta cũng đã thảo luận về đặc điểm này, nhưng cũng không kết luận như là định dạng của một dòng lan đặc trưng. Do vậy, năm 1995 , Koopowitz đã đưa ra một bổ sung là không cần thiết. Cây lan được mang từ nơi hoang dã về trồng chỉ ra rằng nó thực sự có sự khác biệt với các cây trong cùng loài.

Các cây có vết khắc chạm ở lá đài sau đã không được tìm thấy ở nơi cây Paph. sangii sinh trưởng, và những cây của các bộ sưu tập này cho thấy hình thái học tổng quát của hoa gợi cho ta nhớ lại các cây lan thuộc loài phức hệ Ppah. hookerae. Song dù sao, miếng nhụy lép lại không giống với cây phức hệ sau này.

Nguồn gốc tên gọi

Đặt tên sangii để vinh danh ông Halmut Sangi ở Essen, nước Đức.

Mô tả

Paphiopedilum sangii là một loài thảo mộc, một loài cộng sinh sống trên các lớp mùn, ước tính chiều rộng của nó chừng 50 cm khi đo từ đầu lá này đến đầu lá kia. Mỗi thân mang khoảng 5 lá, mỗi lá dài tới 28 cm, rộng 5,2 cm. Mặt trên của lá có màu xanh xám và khảm những đường vân màu xanh đậm. Mặt dưới của lá có đồng một màu xanh, gần chân lá có màu tím đỏ nhạt. Lá có hình trứng hình mũi mác, đầu nhọn và mặt dưới có đường sống gân nổi rõ. Vòi hoa cao tới 25 cm, hình ống, màu nâu sẫm, bao phủ một lớp lông cứng màu ngà. Thông thường mỗi vòi hoa có một hoa, xuất phát từ một vỏ lụa. Lá bắc của hoa dài chừng 2,5 cm, rộng 8 mm, phần đầu nhọn và có màu xanh ngả vàng, phần chân có màu đỏ tía. Bầu nhụy dài chừng 5,5 cm, với chiều rộng chừng 5 mm, màu của bầu nhụy là màu nâu rất đậm, và cũng giống như vòi hoa, chúng có một lớp lông màu ngà. Nhưng dù sao thì lớp lông ở bầu nhụy cũng dài hơn lớp lông ở các bộ phận khác của cây lan. Hoa có chiều cao 8,5 cm, chiều ngang chừng 5,4 cm khi ta đó khi cánh hoa cụp xuống. Lá đài sau dài tới 4,3 cm và đo theo chiều ngang được 3,3 cm, lá đài sau hình ô-van hẹp, đầu nhọn. Một số cây vô tính có lá đài sau có những đường khắc đối xứng, sâu (?) chừng 8 mm ở cả hai mặt, chạy dọc từ chân đến tâm. Lá đài sau có màu xanh táo, phần chân có màu nâu ngả đỏ, vùng đỉnh lá màu xanh sáng, riềm có màu xanh táo đồng nhất. Trên mỗi lá đài sau có 18 sọc màu xanh đậm chạy dọc theo lá, trên mặt lá có lông màu ngà, lông phía ngoài dài hơn bên trong. Như một nét riêng biệt của giống Paphiopedilum, các lá đài bên hợp nhất lại thành lá đài kép dài chừng 3,3 cm và rộng 1,6 cm, phần đầu ta thấy có hai đỉnh nhưng cũng chỉ một đường sống gân chung, và đôi khi ta thấy có khe rãnh nhỏ ở hai bên riềm. Màu của lá đài kép là xanh ngả vàng, cũng đôi khi hoặc nhiều hoặc ít những sọc không rõ chạt theo chiều dọc, và cũng như lá đài sau, chúng được bao phủ bởi lớp lông cứng ở cả hai mặt. Các cánh hoa có chiều dài đến 4,6 cm, rộng 1,2 đến 1,4 cm, hình mũi mác, đầu có thể tròn. Các cánh hoa thường hướng xuống phía dưới tạo thành một góc 45 độ, hơi cong về phía sau, và riềm trên của cánh hoa gợn sóng mạnh từ chân đến khoảng hai phần ba chiều dài của nó. Các cánh hoa có màu đỏ nâu, màu chuyển sang màu sáng nhất ở phần ngọn, dọc theo riềm có một giải băng hẹp màu màu xanh táo, nửa trên của mặt trong cánh hoa có lông màu ngà. Môi có ba thùy, chiều dài tổng quát đến 4,7 cm và rộng 1,9 cm. Thúy giữa và hai thùy bên cuộn lại tạo thành cái ống. Hai thùy bên cao 2,5 cm và rộng 1,5 cm, với màu tía sáng, riềm màu trắng có những chấm màu tía đậm. Thùy chính của túi dài 3,5 cm, rộng 1,9 cm, phẩn đỉnh tròn. Đo kích  thước của túi, không kể phần gập vào thì chúng có chiều ngang là 2 cm. Thùy chính của túi có màu xanh ô-liu, với những đường vân nổi bật màu xanh đậm, có chung quanh túi là một màu xanh. Miếng nhụy lép hình cầu rộng 1,5 cm, tương tự với chiều cao, màu của nó là xanh vàng, ở tâm màu trắng, phần mép ở đỉnh màu xanh.

Phân bố và thói quen sinh trưởng

Ở miền bắc Sulawesi. Chúng tôi không có thêm thông tin ở những nơi khác.

Mùa ra hoa

Paphiopedilum sangii ra hoa từ cuối tháng Mười một cho đến giữa tháng Tư. Đó là thông tin về những cây được nuôi trồng.

Biến loài và biến thể

Việc sưu tập các cây lan này rồi đem về trống ở trang trại cho ta thấy Paphiopedilum sangii có khá nhiều biến thể xét về hình thái học của hoa, vị trí của các cánh hoa khi ta nói về cái túi của nó, màu hoa và những vân trên lá. Cho đến ngày nay không có biến loài cũng như biến thể được mô tả một cách chính thức, song hy vọng rằng các hình thể về thực vật học sẽ được công bố sớm một khi loài lan này được trồng phổ biến hơn./.

Hình trong bài: Paphiopedilum sangii

Add a Comment

Your email address will not be published.