Pahiopedilum bullenianum (Tiếp theo bài 46)

P. bullenianum

Pahiopedilum bullenianum (Tiếp theo bài 46)

Paphiopedilum linii được Schoser mô tả (1966), thời gian ấy ông là giám đốc Frankfurt Municipal Botanic Gardens. Bản mô tả đó được dựa trên các cây lan được sưu tập cách Kuching ở Sarawak, Boneo. Schoser đưa vào dòng lan để đặt tên vinh danh Mrs. Phyllis Sheridan-Lea, người mà người thường biết đến với cái tên bà Lin trong số những loài có nguồn gốc (như tên gọi của dòng này chỉ là tên của riêng lẻ của một phụ nữ, đáng lẽ ra phải đặt tên cho nó là “liniae”. Ông ấy đã so sánh Paph. linii với Paph. bullenianum, song lại cho rằng trên đầu mút của miếng nhụy lép đã không có cái răng giữa trong đường xẻ. Ngoài ra, sự phát triển của cái răng cưa giữa này của loài Paph. bullenianum rất khác và loài Paph. linii chắc chắn là một trong những biến loài thường thấy. Một đặc điểm khác thường dùng để phân biệt Paph. linii với Paph. bullenianum ở cấp độ nuôi trồng là nửa của phần chân các lá của cây Paph. linii có các vân dầy hơn loài Paph. bullenianum, song một lần nữa phải nói đây là một đặc điểm khá khác biệt. Karasawa (1980) đã tiến hành nghiên cứu di truyền tế bào trên những cây có những đặc điểm như Paph. linii và nhận ra rằng số nhiễm sắc thể đã cho thấy chính là của Paph. bullenianum (2n=40) và sự xuất hiện xô-ma của cả hai loài là tương tự như nhau. Karasawa tỏ ra một chút nghi ngờ và cho rằng nên coi Paph. linii là một biến loài của Paph. bullenianum.

Paphiopedilum johorense đã được Fowlie & Yap (1972) mô tả. Các cây của dòng này được đem về từ Gunnung Panti (núi Panti), thuộc bang Johor ở miền nam bán đảo Malaysia và trên Pulau Tioman (quần đảo Tioman) ở biển Đông. Đây là một trong hai dòng của nhóm này (dòng khác là Paph. tortipetalum), trong đó hình thái học của miếng nhụy lép cũng gần giống hơn với những gì mà chúng ta thấy ở các cây của Paph. appletonianum. Fowlie & Yap đã mô tả những đốm trên lá chỉ là “nhìn thấy mờ mờ” và so sánh nhận xét của họ với loài appletonianumPaph.linii. Yếu tố quan trọng nhất  đưa chúng ta đến kết luận về dòng này là biến loài của bullenianum là bản nghiên cứu của Karasawa (1986), người đã tìm ra số  nhiễm sắc thể để chắc chắn rằng sự xuất hiện số xô-ma của nhiễm sắc thể của hai dòng là rất giống nhau. Sự khác nhau trong hình thái học của lá cho phép chúng ta chấp nhận Paph. johorense như là một biến loài.

Paphiopedilum celebesense được Fowlie & Birk mô tả trong năm 1980. Nhận xét được dựa trên các cây lan mà Birk thu thập được ở khu vực của Rantepao thuộc miền trung Sulawesi. Chúng khác với cây bullenianum thuần ở chỗ riềm của cánh hoa ít đốm hơn, phần đầu của môi có ít khía, các cánh hoa ngắn hơn, môi ngắn hơn và một chút khác biệt về hình thái học của miếng nhụy lép. Số lượng nhiễm sắc thể khác với Paph. bullenianum (Karasawa 1979), và trên cơ sở đó, Karasawa & Saito (1982) đã mô tả Paph. celebesense là một loài riêng biệt. Mặt khác, các cây này rất thích hợp trong phạm vi của sự biến đổi bình thường  của Paph. bullenianum, và vì thế mà chúng tôi không tán thành chuyển dòng này sang cấp độ loài. Những khác biệt  với các cây Paph. bullenianum thuần khá rõ, song dù sao cần công nhận Paph. celebesense như một biến loài riêng biệt.

Birk (1983) đã căn cứ vào những cây từ đảo Ceram ở Moluccas đó là cây Paphiopedilum ceramense. Sự xác nhận này chưa bao giờ xuất hiện ở những ấn phẩm có giá trị, vì thế cái tên ở trên có thể gọi là một tên được đặt không dựa trên căn cứ nào, và chỉ nên xử lý nó như một từ đồng nghĩa với Paph. bullenianum var. celebesense.

Dòng cuối cùng trong phức hệ này là Paphiopedilum tortipetalum, một khái niệm được Fowlie xuất bản (1985). Ông ấy đã đặt dòng này gần với Paph. johorense, và phân biệt hai dòng lan bằng cách coi các cánh hoa của chúng xoắn theo hình ‘Sin’, hình dạng các cánh hoa, và các rãnh xẻ ở riềm của lưỡi, cũng như số lượng vết đốm trên mỗi lá. Rất giống với Paph. johorense, hình thái học của miếng nhụy lép của Paph. tortipetalum gần với nhụy lép của appletonianum hơn là với Paph. bullenianum. Ngoài ra, mặt trên của lá có những vết đốm rất đậm. Không có được số nhiễm sắc thể hoặc các số liệu về xô-ma. Những cây lan được đưa vào nghiên cứu đều dựa trên những cây được thu thập ở dẫy núi Barisan của Sumatra, gần con sông phía đông Payakumbuh, trên độ cao 900 m. Sự lựa chọn của chúng tôi không nhằm duy trì dòng lan này như một loài, mà để hạ thấp chúng xuống như một loài trùng tên ở hình thái danh định, song chúng tôi cũng sẽ xem xét thêm một khi chúng tôi có được những cây khác.

Nguồn gốc tên gọi

Tên bullenianum để vinh danh nhà làm vườn của Anh tên là Bullen, người đã giúp ông bà Low & Co. nuôi trồng lan.

Mô tả

Paphiopedilum bellenianum là một loài thảo mộc có quanh năm mọc trên những lớp lá mục. Lá của chúng có hình mũi mác ngược đến hình mũi mác hình ê-lip, với đầu lá tù, có ba răng ở đỉnh, dài chừng 15 cm, rộng khoảng 3,5 cm. Màu lá đa dạng màu xanh xám xỉn với ánh màu xanh da trời đến màu xanh sáng. Mặt trên của lá với những vân lớn, không nổi bật, có màu xanh đậm hơn, và dưới của lá thỉnh thoảng có những đốm màu hồng. Vòi hoa dài tới 55 cm, và thông thường chỉ mang có một hoa, ít khi có hai hoa. Cuống hoa phủ lớp lông cứng, thân màu xanh, chấm đỏ. Lá bắc  có lông mịn, hình ê-lip dạng trứng, đầu nhọn, dài tới 2 cm, ở phần chân có đốt, và dài chừng một phân ba bầu nhụy. Người ta đo chiều ngang của hoa được 9,5 cm. Lá đài sau cao khoảng 3,5 cm, rộng 2,2 cm, hình trứng, đầu nhọn, thường khum khum như lòng chảo, và riềm của phần chân hai bên đối xứng nhau. Thông thường màu của lá đài sau là trắng đến màu xanh sáng, ở tâm có những đường kẻ theo chiều dọc, màu xanh đậm hơn và những đường vân khi đậm khi mồ mà xanh. Phần chân của lá đài sau có những đốm màu đỏ tía đậm, và mặt sau của nó có lớp lông ngắn. Lá đài kép, luôn hẹp hơn và ngắn hơn lá đài sau, hình mũi mác đến hình trứng hẹp, đầu nhọn, dài chừng 2,5 cm, rộng 1 đến 1,5 cm. Màu của lá đài kép là trắng đến xanh sáng, với một ít đường vân màu xanh. Các cánh hoa dang rộng sang hai bên, đến đỉnh thì cụp xuống. Cánh hoa dài 3,8 đến 5,5 cm, rộng 0,9 đến 1,5 cm, hình chiếc muỗng đến hình trứng ngược, đầu tù. Các cánh hoa  có màu nền pha xanh đến vàng hùng với những chấm màu đỏ tía chạy xuống phía chân, phần đầu cánh hoa tràn ra một màu đỏ hồng. Riềm của các cánh hoa hơi quăn, có lông mịn màu vàng sáng trang điểm thêm những mụn cóc nhỏ màu đen. Chiếc túi hình dạng giống chiếc mũ kết lật ngược, dài 3 đến 5 cm, rộng 3,5 cm. Màu túi là màu nâu đất đến nâu pha xanh, ánh lên màu đỏ tía, màu ở phần đầu lợt hơn. Hai thùy bên của túi gập vào trong được che phủ bởi một cái bướu lớn. Miếng nhụy lép có khi là bình bán cầu, khi lại có hình nửa cái trống, hoặc hình ô-van. Chiều dài miếng nhụy lép từ 6 đến 9 mm, rộng 6 đến 8 mm, mặt trên mặt dưới đều có khía, thùy lõm ở dưới thường sâu hơn và ở giữa có một cái răng. Toàn miếng nhụy lép có màu xanh với một mảng màu xanh đậm. Kết hợp cả bầu nhụy với cuống hoa dài từ 4 đến 6 cm.

Phân bố và thói quen sinh trưởng

Borneo, Sumatra và bán đảo Malaysia. Paphiopedilum bullenianum sinh trưởng ở nhiều môi trường khác nhau từ độ cao ngang mực nước biển đến độ cao khoảng 1.850 m, song người ta tim thấy chúng chủ yếu trên độ cao 900 m. Chúng mọc nơi có lá mục trên sườn đồi núi đá có rêu phủ, dưới ánh sáng nhẹ trong rừng cây dại.

Ra hoa

Các báo cáo nói về việc ra hoa của Paphiopedilum bullenianum thường là quanh năm, trừ tháng Tám và tháng Chín. Mua hoa cao điểm hình như vào tháng Hai và tháng Ba./. (Còn nữa)

Add a Comment

Your email address will not be published.