Paphiopedilum sukhakulii Schoser & Songhas

P. sukhakulii

Phân giống (Subgenus) Sigmatopetalum (Tiếp)

  • Paphiopedilum sukhakulii Schoser & Songhas

Trùng tên

Paphiopedilum dixlerianum Braem & Chiron

Dẫn nhập

Paphiopedilum sukhakulii được biết là đã tìm thấy bởi nhà làm vườn người Thái tên là Prasong Sukhakul, ở miền bắc quê hương ông ta, nhưng những người tại đó cho biết ông ấy mua lại các cây này từ một nhà sưu tập ở địa phương. Trước đây những cây này được sưu tập khi chúng chưa có hoa và được bán cho một số nhà vườn ở Bỉ và Đức với cái tên Paph. callosum. Hai loài này sinh trưởng ở cùng một điều kiện môi trường và có những đặc tính thực vật gần giống nhau. Khởi thủy, người ta đưa ra một đề nghị rằng nên coi các loài này là bản mẫu của Paph. wardii, là một loài người ta cho là đã tuyệt chủng vào thời đó, bởi vì qua nhiều năm người ta không tìm thấy chúng. Hơn nữa, Schoser & Senghas thừa nhận rằng những cây được giới thiệu là một cây khác, mặc dù chúng cũng có chút ít tương đồng, về cả thực thể trong dòng lan, và như vậy người ta mô tả chúng như một loài. Sau đó, loài Paph. sukhakulii được đưa vào trồng với số lượng cực lớn, đến bây giờ thì nó đã trờ thành một loài lan hài được trồng rất phổ biến, và cũng vì thế mà cũng đạt được một số giải thưởng. Cribb (1998) so sánh Paph. sukhakulii với Paph. wardii và nói rõ rằng màu hoa của loài sukhakkulii xanh hơn, điều đó là đúng nhưng chỉ với những cây đặc biệt nào đó. Ông ấy cũng cho biết rằng lá của loài Paph. sukhakulii thiếu vắng những đốm màu đỏ tía ở mắt dưới, tuyên bố đó mâu thuẫn với thực tế cũng như phần mô tả gốc. Paphiopedilum sukhakulii khác với Paph.wardii ở chỗ cách sắp xếp những chấm đốm trên lá, cả về hính dạng và vị trí của các cánh hoa, bởi các cánh hoa ở Paph. sukhakulii thì giang rộng sang hai bên, khác về màu sắc của hoa, và hình dạng của miếng nhụy lép, và theo hướng phủ lên nắp bao phấn.

Paphiopedilum dixlerianum được cho là đã sưu tập từ Myanmar vào mùa xuân 1997, và ban đầu được Braem & Chiron mô tả như một loài riêng biệt. Thành thật mà nói, những thông tin vừa qua buộc chúng tôi phải nghi ngờ về lai lịch của cây được đưa ra và người ta nghiên cứu từ đó, chúng tôi đã đi đến kết luận rằng, tốt nhất là coi nó như một dòng đồng nghĩa với Paph. sukhakulii.

Nguồn gốc tên gọi

Đặt tên sukhakulii để vinh danh Prasong Sukhakul, người trồng lan của Thái Lan.

Mô tả

Paphiopedilum sukhakulii có bốn đến tám lá hình ê-lip hẹp, chiều dài của lá lên tới 25 cm, rộng 5 cm. Đỉnh của lá có ba răng cưa ngắn. mặt trên của lá khá nhám, và có vẻ khá thuôn, mặt dưới của lá có những đốm màu đỏ nhưng chỉ xuất hiện ở phần chân lá. Vòi hoa màu nâu tía, đứng thẳng, cao đến 25 cm, phủ kín một lớp lông trắng, và thường chỉ có một hoa, ít khi có hai hoa. Lá bắc của hoa dài 1,5 đến 2,5 cm, đo chiều ngang được 1,2 đến 2 cm, hình ô-van gập đôi, đầu nhọn, mặt sau có một sống gân nổi rõ, lá bắc này có màu xanh sáng với bảy đường kẻ vân màu đậm hơn. Mặt dưới của lá có lông cứng bao phủ. Bầu nhụy dài 4 đến 6 cm, hướng lên trên, với hình tam giác trông hơi lỗ mãng, đỉnh cong vào bên trong, phủ lông tơ không đều. Chiều ngang của hoa đo được 14 cm. Lá đài sau hình ô-van rộng mở, nhọn đầu, dài 3,2 đến 4,2 cm, rộng 2,5 đến 3,2 cm, màu trắng có mười đến mười ba sọc rộng, và hai đến sáu sọc ngắn, tất cả có màu xanh đậm. Các lá đài bên kết hợp lại với nhau thành lá đài kép, trông tương tự như lá đài sau song nhỏ hơn, và có chín sọc sẫm màu. Các cánh hoa thì dang rộng ra và gần như là theo chiều ngang. Chúng có chiều dài từ 6 đến 7 cm, rộng 1,2 đến 1,4 cm. Mép cánh hoa gần như song song với nhau theo chiều dọc, hai phần ba phần đầu trở nên nhọn. Màu của chúng là màu xanh sáng, với sáu đến tám kẻ sọc theo chiều dài, màu sẫm hơn, trên mặt cánh hoa có nhiều chấm màu đỏ ngả nâu và không bao giờ nổi lên như những cái mụn. Các cánh hoa rực rỡ với những lông tơ hai bên riềm, và lông ở chân vừa nhiều hơn vừa dài hơn ở đỉnh. Ba thùy của môi tạo thành một góc 30 đến 40 độ với trục của vòi hoa. Tính tổng quát, chúng dài 4 đến 5 cm. Thùy giữa tạo thành cái túi dài 3 đến 3,5 cm, nhìn từ phía trước, nó tạo thành một hình tam giác. Phần đầu có màu xanh ngả vàng, nhưng chuyển dần sang nâu hoặc nâu đỏ về phía trước với những sọc màu sẫm hơn. Mặt ngoài rải đều một lớp lông mỏng. Bên trong của túi (hài) bóng loáng, màu rượu chát, song mặt sau và đáy lại phủ đầy lông dài và trắng. Miếng nhụy lép hình bán nguyệt, đo chiều ngang được 11 đến 13 mm, màu xanh trắng với nền xanh đậm. Có một trụ hướng che phủ lên nắp bao phấn.

Phân bố và thói quen sinh trưởng

Ở miền đông bắc Thái Lan. Loài lan này sống trên độ cao 240 đến 1.000 m, trên núi Phu Luang ở tỉnh Loei. Paphiopedilum sukhakulii mọc ở vùng đất cát trộn lẫn với những mảnh gỗ mục, thường thì mọc dọc theo bờ suối dưới bóng râm vừa phải của những cây lớn. Ở những vùng thấp hơn, người ta có thể tìm thấy chúng xâm lấn vào khu vực có loài Paph. crossii (trước đây được biết với tên Paph. callosum).

Mùa ra hoa

Paphiopedilum sukhakulii trong nuôi trồng thì ra hoa quanh năm , mùa cao điểm là từ tháng Tám qua tháng Ba.

Các biến loài và hình thể

Paphiopedilum sukhakulii có rất nhiều biến loài, đặc biệt là về các đốm trên lá, độ rộng của các cánh hoa, và màu sắc của hoa. Và vì thế mà chúng ta cũng không ngạc nhiên một khi không có biến loài hay biến thể nào được mô tả một cách chính thức, trừ thể aureum.

Paphiopedilum sukhakulii forma aureum Van Delden ex Gruβ

Cây này giống các cây mẫu của Paphiopedilum sukhakulii về mọi phương diện, ngoại trừ màu hoa. Lá đài sau màu trắng và có một ít sọc, thường thì ít hơn 20, đôi khi cũng nhiều hơn, sọc dọc theo chiều dài, màu xanh đen. Các cánh hoa và môi màu xanh ngả vàng sáng với hình mắt lưới màu xanh đậm hơn. Miếng nhụy lép màu xanh ngả vàng với một nền xanh đậm. Paphiopedilum sukhakulii forma aureum cũng được Birk (1983) mô tả với tên Paph. sukhakulii var. album. Nhưng cách xác định đó không được phổ biến một cách chính thức./.

Hình trong bài: (1) Paphiopedilum sukhakulii (đầu trang); (2) Paph. sukhakulii forma aureum (hình dưới)

P. sukhakulii aureum

Add a Comment

Your email address will not be published.