Paphiopedilum argus

P. arugus

Phân giống (Subgenus) Sigmatopetalum (Tiếp)

58) Paphiopedilum argus (Reichenbach fil.) Stein.

Tên gọi đầu tiên

Cypripedium argus Reichenbach fil.

Trùng tên

Cypripedium barbatum var. argus hort.

Cypripedium pitcherianum W. A. Manda

Paphiopedilum argus Kerchove de Denterghem

Cordula argus (Reichenbach fil.) Rolfe

Paphiopedilum sriwaniae Koopowitz

Paphiopedilum argus var. sriwaniae (Koopowitz) Gruβ

Paphiopedilum usitanum Gruβ & Röth

Dẫn nhập

Paphiopedilum argus được Gustav Wallis phát hiện vào năm 1872, ông ấy đã tìm thấy cây này trên đảo Luzon của Philippines trong lúc đi tìm lan cho cơ sở nuôi lan của Anh có tên là Ông bà Veitch & Sons. Những cây lan đầu tiên được đưa đến nước Anh đã ra hoa vào tháng Tư năm 1873. Vào cuối năm đó, H. G. Reichenbach đã mô tả loài này thuộc dạng trung gian giữa Paph. barbatumPaph. purpuratum, bởi vì kết cấu hoa nói chung và hình dạng của lá đài sau lại giống cây Paph. purpuratum. Trước đó, con của Reichenbach không nghĩ đó là một loài, anh ta viết: “Đó không phải là một loài lan lớn (nguyên văn grand Orchid), song nó lại rất kỳ lạ nên bổ sung vào một giống đáng yêu…”.

Mặc dù khá có khả năng biến đổi, Paph. argus là một loài điển hình và khó mà lầm lẫn được. Chúng rất dễ nhận dạng và rất đáng chú ý vì vị trí không cân xứng, các cánh hoa không quăn với những chấm rất rõ, đồng thời chúng lại chúc xuống với một góc 20 đến 30 độ.

Có thể không còn nghi ngời gì nữa Paphiopedilum argus có quan hệ chặt chẽ với Paph. barbatum, Paph. crossii, Paph. hennissianum, Paph. lawrenceanum.

Cây lan được Koopowitz mô tả vào năm 1991 với tên Paphipoedilum sriwaniae, được dựa trên lần ra hoa đầu tiên khi thu thập nó mà không rõ các vấn đề liên quan đến sinh trưởng. Cây mẫu duy nhất đã chứng minh đó là một cây Paph. argus bình thường khi nó lại ra hoa vào năm sau. Việc Gruβ chuyển sang cấp độ biến loài vào năm 1994 là chỉ dựa trên bản mô tả trước đây của Koopowitz và việc chứng minh thêm là không cần thiết.

Nguồn gốc tên gọi

Do trên các cánh hoa của chúng có một số chấm trông giống những cái mắt, vì thế Reichenbach mượn tiếng Hy-lạp, trong tiếng Hy-lạp chữ argus có nghĩa là con quỷ khổng lồ nhiều mắt.

Mô tả

Paphiopedilum argus là một loài thảo mộc, thường mọc trên nền rừng, nơi có nhiều lá mục hoặc rêu. Mỗi thân của cây lan có 5 lá hình ê-lip hoặc hình trứng thuôn, nhọn đầu, ở đỉnh lá có ba răng nhỏ và quanh riềm lá cũng có răng cưa rất mịn. Mỗi lá dài 9 đến 25 cm, rộng 2 đến 4,5 cm. Màu của lá là xanh xỉn, mặt trên có những vết khảm hình trứng màu xanh đậm. Mặt dưới của lá màu xanh, phần chân ánh lên màu đỏ tía. Vòi hoa hướng lên trên cao 30 đến 45 cm, màu đỏ tía hoặc xanh với những đốm đỏ và lông tơ ngắn. Thường mỗi hoa chỉ có một hoa, hiếm khi có hai hoa. Lá bắc của hoa hình ê-lip, đầu nhọn, rất ít khi thấy chúng không nhọn, dài 2 đến 4,5 cm, rộng 1,5 đến 2 cm. Lá bắc có màu xanh ở giữa có đường gân màu đỏ tía, quanh riềm có lông mịn. Cán hoa và bầu nhụy dài 5 đến 8 cm, màu xanh, có lông tơ. Đo chiều ngang của hoa được 6 đến 8 cm. Riềm của lá đài sau có khá ít lông tơ, hình ô-van hoặc hình trái tim, đầu nhọn, màu trắng; chạy theo chiều dọc là các đường kẻ không đều. Những đường kẻ này đôi khi tất cả là màu xanh, có khi những đường dài lại là màu đỏ tía, còn đường kẻ ngắn vẫn là màu xanh. Gần phần chân của lá đài sau thường có những đốm màu đỏ ngả đen. Chiều dài của lá đài sau từ 3,8 đến 4,8 cm, rộng 3 đến 4,8 cm. Các lá đài bên hợp lại thành lá đài kép cũng giống như lá đài sau song chỉ dài 4 đến 4,5 cm và rộng 1,7 đến 2,2 cm; có cạnh sắc, đầu có khía hình V, màu trắng, sọc xanh. Tuy vậy các đường sọc của lá đài kép là xanh lợt và đều nhau hơn so với lá đài sau. Các cánh hoa không đối xứng, hơi cuộn lại, mép gợn sóng, hình cái lưỡi, đầu nhọn, có lông mịn dọc theo riềm cánh hoa, dài 4,5 đến 6,5 cm và rộng 1 đến 2 cm. Các cánh hoa có màu trắng với những được sọc xanh lợt, chạy dọc theo chừng hai phần ba chiều dài cánh hoa, phần thứ ba còn lại ở ngọn có màu tía lợt, vầ gần như toàn bộ mặt trong của cánh hoa có những đốm màu hạt dẻ ngả đen rất rõ. Môi của hoa có hình chiếc mũ kết lật ngược, dài 4 đến 4,5 cm, rộng 2 đến 2,5 cm. Thùy chính hoặc cả cái túi có màu đỏ tía ngả nâu ở phía trên, phần bên trong túi màu nâu pha xanh có l6ng tơ. Hai thùy bên cuộn vào trong thì hẹp màu tía lợt đồng thời có những đốm màu đỏ tía. Miếng nhụy lép hình bán nguyệt đến gần giống hình móng ngựa, đỉnh nhọn và cuộn vào bên trong. Miếng nhụy lép này dài 7 đến 9 mm, rộng 1,1 cm, có lông tơ với màu xanh ngả nâu lợt và các đường vân màu xanh.

Phân bố và thói quen sinh trưởng

Tại quần đảo Philippines. Paphiopedilum argus là loài đặc hữu của miền bắc đảo Luzon, ở đó chúng mọc trên triền dốc hướng đông – tây, trong rừng trên núi. Người ta thường tìm thấy chúng trên độ cao 1.200 đến 2.000 m ngay phía dưới đỉnh núi nơi có lớp rêu dầy trên nền của các cây thấp lùn, ở đó có nhiều lá mục cũng là nơi tre mọc ken dầy.

Mùa ra hoa

Paphiopedilum argus ra hoa từ tháng Giêng qua tháng Tư, nhưng trong  một vài bài viết thì trong nuôi trồng có thời điểm ra hoa không phải vậy.

Biến loài và biến thể

Như chúng tôi đã đề cập ở trên, Paphiopedilum argus có rất nhiều biến loài, sự khác nhau chủ yếu là màu sắc của hoa. Nhiều “biến loài” trước đây đã được công bố trong các tài liệu và nay cũng không còn thấy đề cập đến nữa./.

Add a Comment

Your email address will not be published.