Paphiopedilum crossii

P. crossii

Phân giống (Subgenus) Sigmatopetalum (Tiếp)

  • 60) Paphiopedilum crossii (Morren) Braem & Senghas

Tên cũ

Cypripedium crossii Morren

Trùng tên

Cypripedium barbatum var. warnerianum T. Moore

Cypripedium barbatum var. warneri hort

Cypripedium callosum Reichenbach fil.

Cypripedium barbatum var. crossii hort. ex Kent

Paphiopedilum callosum (Reichenbach fi.) Stein

Paphiopedilum reflexum hort. ex Stein

Paphiopedilum regnieri hort. ex Stein

Cypripedium schmidtianum Kraenzlin

Paphiopedilum callosum var. schmidtianum (Kraenzlin) Pfitzer

Cordula callosa (Reichenbach fil.) Rolfe

Paphiopedilum callosum var. angustipetalum Guillaimin

Paphiopedilum sublaeve (Reichenbach fil.) Fowlie

Paphiopedilum birkii Fowlie, nomen nudum

Paphiopedilum thailandense Fowlie, nomen nudum

Dẫn nhập

Cho đến khi xuất hiện bản đầu của tác phẩm này, tất cả tác giả đều đưa dòng này vào là Paphiopedilum callosum. Hơn nữa, một bản đánh giá chi tiết tất cả các tài liệu có liên quan đã chỉ ra rằng, việc công bố là dòng Cypripedium crossii Morren được đánh giá cao hơn so với công bố của con trai Reichenbach là C. callosum. Morren đã công bố những nhận xét của ông ấy vào năm 1865 về C. crossii, trong đó ông ấy viết cây lan này có nguồn gốc từ Peru và được Mr. Cross tìm thấy ở đó. Hơn nữa, bản ghi chép đã được đính kèm một bản vẽ màu rất đẹp, ở đó chúng ta thấy lá của C. crossii thật đúng với mô tả của Reichenbach sau đó 21 năm về cây C. callosum. Như phần công bố của Morren, không nên quan tâm đến bài viết ngắn và có chỗ sai sót có thể có đó, mà những gì đi kèm với công bố này, từ những đặc điểm khác nhau của cây lan, có thể xác định một cách chắc chắn rằng cái tên C. crossii không có cơ sở để nói rằng nó là một nomen nudu. Để trao đổi một cách chi tiết vấn đề này, ta nên coi lại bài của Braem & Senghas (2000).

Có thể tin tưởng rằng Paphiopedilum crossii đã được phát hiện ở Siam (nay là Thailand) và chúng đã được đưa đến châu Âu bởi một nhà sưu tập có tên là Alexandre Regnier, ông cũng là người đã chuyển vật chứng đến cho con của Reichenbach, người đã mô tả một cách chính thức , đó là C. callosum vì thế các công bố trước đây của Morren đã được rà soát và hiệu chỉnh lại (Reichenbach fil. đã làm việc này thường xuyên; có thể lấy thí dụ trong công bố của anh ta về Cypripedium elliottianum trong tạp chí The Gardeners’ Chronicle xuất bản ngày 10 tháng Mười một năm 1888). Paphiopedilum crossii có quan hệ gần gũi với Paph. barbatum, và vì thế mà người ta mô tả đó là biến loài của Paph. barbatum. Nhưng thực ra chúng khác với Paph. barbatum ở chỗ lá đài sau của Paph. crossii lớn hơn, dài hơn, các cánh hoa trông giống hình bán sigma rủ xuống hoặc cũng gần như vậy, và khác nhau cả về số nhiễm sắc thể (xem phần dẫn nhập về loài Paph. barbatum). Trong cuốn A Manual of Orchidaceaous Plants (1889), Kent đã đề nghị rằng Paph. crossii là một loài trung gian giữa Paph. barbatum Paph. lawrenceanum.

Năm 1901, Kraenzlin đã đưa ra một khái niệm về loài Cypripedium schmidtianum. Khái niệm này được dựa trên ba bông hoa được ngâm trong cồn, được nhà làm vườn Đan-mạch có tên là Ernst Johannes Schmidt (1877-1933) sưu tầm trên hòn đảo Koh Chang ngoài bờ biển của Thailand vào mùa xuân 1900. Một trong ba bông hoa này vẫn còn được dùng làm vật mẫu và được lưu giữ ở Bảo tàng Làm vườn ở Copenhagen. Ở đó người ta ghi là Paph. crossii.

Một số nhà trồng lan kinh doanh coi “Paph. schmidtianum” như một loài riêng biệt trong phức hệ Paph. appletonianum hoặc chúng là một loài lan lai trong tự nhiên của Paph. crossii với Paph. appletonianum. Nếu quả thực như vậy, thì “Paph. schmidtianum” nên được xác định với tên Paph. x siamense, nhưng họ đã không làm như thế.

Những khái niệm về Paphiopedilum birkii Paph. thailandense chưa bao giờ được công bố một cách tin cậy. Chúng được coi như là nomina nuda.

Cypripedium crossii Morren không thể lầm lẫn với Paph. crossianum (như Reichenbach fil. mô tả vào năm 1873 là C. crossianum, dựa trên cây lan của bà Ashburton). Cây lan Paph. thailandense được cho biết là do con người lai tạo từ hai cây Paph. insigne và cây Paph. venustum.

Mô tả

Paphiopedilum crossii là một loài thảo mộc, thường mọc nơi có nhiều mùn. Mỗi thân có 3 đến 6 lá. Lá hình ê-lip, ê-lip thuôn, hình ô-van hoặc ô-van thuôn, đầu lá nhọn có ba răng. Lá dài từ 10 đến 25 cm và rộng trên dưới từ 3,2 đến 5 cm, màu sắc có khác nhau, thường là màu xanh sáng, có những mảng giống tượng hình màu xanh đậm, mặt trên có khảm nhưng thường có màu lợt hơn; đường sống gân màu xanh xám, phần chân lá hơi cuộn lại . Chân lá đôi khi có màu đỏ tía ở mặt dưới. Vòi hoa hướng lên trên, cao tới 40 cm, màu tím đậm, hơi cong, thường chỉ mang một hoa, đôi khi có hai hoa. Lá bắc của hoa dài khoảng 2,2 cm, phủ lên một phần ba bầu nhụy. Hoa có chiều ngang tới 10 cm. Lá đài sau hình trái tim rộng, cao trên dưới 5 cm, rộng 7,5 cm, hơi gập lại dọc theo đường sọc ở giữa và phần đỉnh hơi quăn, màu trắng với vô số những đường sọc ngắn, dài có màu xanh ở phần chân và màu vang đỏ ở phần đỉnh. Lá đài kép thì nhỏ hơn nhiều so với lá đài sau, chỉ dài 3,5 cm, hình ô van đến hình mũi mác cùn, màu trắng với những sọc theo chiều dọc màu xanh lợt. Các cánh hoa hình lưỡi dài chừng 5,5 cm, rộng 1 cm, cúp xuống tạo thành một góc 45 độ và thậm chí còn sát tới môi, riềm có lông tơ và có khoảng 5 mụn cóc ở mặt trên, cánh hoa màu xanh lợt với những sọc màu đậm hơn, ánh lên với màu đỏ hồng ở một phần ba phía đỉnh. Môi tạo thành một cái túi sâu, giống như cái mũ kết lật ngược, dài 4,7 cm, rộng chừng 2,2 cm, có màu nâu đồng, phần dưới ánh xanh; hai thùy bên gập lại màu xanh, có những đốm màu đỏ đậm. Miếng nhụy lép thì không đồng nhất, từ tròn như cái móng ngựa tới gần như hình vuông, ở đỉnh có một khe nứt, xuống thấp một chút thì có ba răng cưa, răng cưa hai bên dài hơn nhiều so với răng giữa.

Phân bố và thói quen sinh trưởng

Ở miền trung và miền đông Thailand, Cambodia, Lào và lục địa Malaysia. Loài này rất phổ biến ở Thailand, ở đó chúng mọc trên độ cao 300 đến 1.300 m trong môi trường mát mẻ, trong các khu rừng nhiều sương, ở đó rễ của chúng bám vào rêu, mảnh gỗ vụn và lá mục trên nền rừng.

Mùa ra hoa

Paphiopedilum crossii ra hoa vào thời gian giữa tháng Ba và Bảy, nhưng người ta cũng cho biết là chúng ra hoa quanh năm.

Các biến loài và biến thể

Paphiopedilum crossii có khả năng biến đổi và có một số lượng lớn các biến loài (tất cả đều như Cypripedium callosum var.) như đã được mô tả ở trên. Ngoại trừ danh mục các biến loài được liệt kê ở dưới, thì không còn loài nào khác được thừa nhận là một thực thể riêng biệt.

Paphiopedilum crossii var. sublaeve (Reichenbach fil.) Braem & Senghas

Thực thể này được dựa trên Cypripedium allosum var. sublaeve Reichenbach fil. (1888). Các cây phù hợp với dòng này đã được đưa ra thị trường với những cái tên như Paphiopedilum callosum, Paphiopedilum callosum var. sublaeve, Paphiopedilum sublaeve, Paphiopedilum thailandense và Paphiopedilum barbatum.

Paphiopedilum crossii var. potentianum (Gruβ & Röth) Braem & Senghas

Mặc dù, đầu tiên chúng được Gruβ & Röth mô tả (1995) như là một loài riêng biệt, var. potentianum rất khác vì chúng không có những mụn cóc ở riềm cánh hoa cũng như lá đài sau hẹp hơn.

Paphiopedilum crossii forma viniferum (Koopowitz & Hasegawa) Braem & Chiron

Cây này được biết như là Paphiopedilum callosum ‘jac’, hoa của chúng có màu rượu chát đậm, và các cánh hoa có những chấm đậm màu. Nhà làm vườn ở California Morris Powell đã lưu ý khi ông ấy viếng thăm vườn trồng ở Netherland. Có một cây tương tự được gọi là Paph. callosum ‘Ebon’, song thực ra cây này được trồng bởi Emerson ‘Doc’ Charles, cây này có cánh hoa tạo thành một góc 45 độ so với đường nằm ngang.

Paphiopedilum crossii forma viridiflorum (hort. ex Linden) Braem &Chiron

Biến loài này có các hoa màu trắng pha xanh, không có một vết đỏ nào. Vì vậy đây chính là một cây albino. Mặc dù albino của Paphiopedilum crossii thường thì được coi như là var. sunderae, Linden công bố năm 1893 như là “var. viridiflorum” nên được ưu tiên, vì thế bản công bố tiếp theo trong tạp chí The Gardeners’ Chronicle xuất bản năm 1894 được Sander coi như var. senderae./.

Add a Comment

Your email address will not be published.