Paphiopedilum fowliei Birk

P. fowliei

Phân giống (Subgenus) Sigmatopetalum (Tiếp)

61) Paphiopedilum fowliei Birk

Trùng tên

Paphiopedilum hennisianum var. fowliei (Birk) Cribb

Dẫn nhập

Paphiopedilum fowliei được Lance Birk công bố vào năm 1981. Nội dung của nó được dựa trên các cây do Paul Mattes (sau đó là Chủ tịch Hội Hoa lan của Australia) cùng với Lance Birk sưu tập từ quần đảo Palawan của Philippines. Mattes đã thực hiện việc nghiên cứu của mình lấy cảm hứng từ một xuất bản phẩm do Ames thực hiện năm 1924, trong đó có đề cập đến cây lan được Foxworthy sưu tập ở Palawan (phía trên thác gần đỉnh Victoria). Mãi đến rất gần đây, Paph. fowliei nhìn chung là không được chấp nhận như một loài riêng biệt. Cribb (1987) coi đó như là một biến loài của Paph. hennisianum, và Braem (1988) (không chấp nhận như một thực thể riêng biệt) đã coi chúng như là trùng tên với Paph. lawrenceanum. Vào năm 1993 Braem đã nhìn nhận Paph. fowliei là một loài riêng biệt và mô tả chúng ở thể albino như Paph. foeliei var. sangianum (xem bên dưới). Koopowitz (1995, 2000, 2012) cùng với Cribb (1998) đồng ý với Braem ở điểm, họ ghi nhận Paph, fowliei như một thực thể riêng biệt ở cấp độ loài. Paphiopedilum fowliei được nhắc đến nhiều trong nuôi trồng.

Nguồn gốc tên gọi

Đặt tên fowliei để vinh danh Dr. Jack Fowlie (1929-1993), chủ bút của tạp chí Orchid Digest.

Mô tả

Paphiopedilum fowliei là một loài thảo mộc, thường thì mọc ở những chỗ trũng có lá mục. Mỗi thân cho 4 đến 6 lá, lá hình ê-lip hẹp đến ê-lip, đầu lá từ nhọn đến hợi nhọn và ở đó có ba răng nhỏ. Mỗi lá dài chừng 10 đến 15 cm, rộng 2,5 đến 3,5 cm. Mặt trên của lá màu xám ngả xanh, riềm lá có lông. Vòi hoa dài 20 đến 30 cm và đường kính của vòi chừng 5 mm, đứng thẳng, và thường chỉ mang có một hoa. Quanh vòi hoa đều phủ một lớp lông. Lá bắc của hoa hình trứng, dài 1,5 đến 2,5 cm, màu xanh có lông tơ. Bầu nhụy dài 3,5 đến 6,5 cm, cũng có lông tơ, màu xanh càng lên phía trên thì càng ánh lên màu đỏ tía mờ. Lá đài sau màu trắng với những đường vân xanh và đỏ tía, dài 4 đến 6 cm, rộng 3 đến 4 cm, trũng giống lòng chảo, hình trứng rộng, đầu nhọn và uốn cong về phía trước, phủ lên một phần của túi (hài). Hai lá đài bên hợp nhất lại thành một lá đài kép, và màu sắc của nó cũng giống màu của lá đài sau. Lá đài kép cũng trũng lòng chảo, hình ê-lip, dài 2,8 đến 3 cm, rộng 1,2 đến 2 cm. Các cánh hoa giống hình lưỡi hẹp, đầu nhọn, màu trắng, ở phần chân anh lên màu xanh và đỏ tía ở phần ngọn. Cánh hoa dài 4,6 đến 6 cm, rộng 1 đế 1,5 cm và chếch xuống khoảng 40 độ theo chiều ngang và hơi giống ký hiệu xích-ma ở đỉnh. Riềm của chúng có lông cứng và khảm thêm những mụn màu gần như đen, những mụn này ở phần chân ít hơn ở phần ngọn. Nửa trên của cánh hoa thì cong lên. Trên các cánh hoa có những đường vân, dọc theo đường vân ở giữa có những chấm tạo thành một đường dọc có màu gần như đen. Môi chia làm ba thùy. Thùy chính như cái mũ kết lật ngược, hai thùy bên cuộn vào bên trong tạo thành cái ống, phủ đầy mụn. Cái môi dài 4,5 đến 5 cm, rộng 2,3 đến 2,8 cm màu xanh đến màu đất ánh lên một mà đỏ tía. Miếng nhụy lép dài chừng 1 đến 1,5 cm, chiều rộng cũng tương tự như vậy và màu vẫn là xanh pha màu đất, với những đường vân màu xanh. Miếng nhụy lép có hình trứng ngược ở phần gốc thường tạo thành góc, phần đều có ba răng n răng cưa hai bên kéo dài thành hình lưỡi liềm.

Phân bố và thói quen sinh trưởng

Trên các quần đảo của Philippines. Cây này được tìm thấy trên hướng đông nam của đảo Palawan gần Mũi Brooke, trên cao trình 600 đến 950 m. Chúng mọc trên vùng lá mục và mảnh vụn trên vùng đá vôi.Paphiopedilum fowliei thường mọc ở nơi có nhiều sáng, nhưng ít khi người ta thấy chúng mọc dưới ánh sáng trực tiếp của mặt trời.

Mùa ra hoa

Paphiopedilum fowliei thường ra hoa từ tháng Giêng qua tháng Tư. Nhưng có cây được biết ra hoa vào một thời điểm khác.

Biến loài và biến thể

Paphiopedilum fowliei forma christianae Braem

Cây lan này được công bố lần đầu với tên là Paphiopedilum fowliei var. sangianum (Braem 1993), nhưng đã được chuyển qua chủng Paph. fowliei forma christianae (Braem 1998). Việc này được Gruβ và Röth cho là không đúng, sau đó các vị này đã tái công bố như là một thể Paph. fowliei forma sangianum (Caesiana, 1999), bỏ qua một thực tế rằng những cái tên đó không hẳn là không phải là một chủng như đã được công bố. Vì vậy tên Paph. fowliei forma christianae cần phải được thừa nhận là có giá trị vì chúng đã được công bố lần đầu như là ở cấp độ dòng.

Paphiopedilum fowliei forma christianae đích thực là albino. Hoa của chúng không có màu đỏ của da. Các cánh hoa và các lá đài có màu trắng với những đường vân xanh. Môi cũng trắng, hầu như toàn bộ anh lên màu xanh và ngay cả các đường vân cũng màu xanh. Miếng nhụy lép màu trắng nhưng miếng chắn lại có một mảng xanh đậm./.

Add a Comment

Your email address will not be published.