Paphiopedilum lawrenceanum

P. lawrenceanum 1

Phân giống (Subgenus) Sigmatopetalum (Tiếp)

63) Paphiopedilum lawrenceanum (Reichenbach fil.) Pfitzer

Tên cũ

Cypripedium lawrenceanum Reichenbach fil.

Trùng tên

Cordula lawrenceana (Reichenbach fil.) Rolfe

Paphiopedilum barbatum subsp. lawreceanum (Reichenbach fil.) M. W. Wood

Dẫn nhập

Paphiopedilum lawrenceanum được tìm thấy ở miền bắc Borneo bởi Frederick William Burbidge (1847-1905), khi ông ấy thực hiện việc sưu tầm cho Veitch & Sons. Burbidge tìm thấy những cây lan này trên tả ngạn sông Lawas, gần Merengit, trên độ cao giữa 300 và 500 m so với mực nước biển. Cây lan còn tươi tốt được Veitch chuyển cho Reichenbach, ông này đã mô tả chúng là một loài.

Paphiopedilum lawrenceanum có quan hệ gần gũi với Paph. crossii, Paph. barbatum, Pah. Fowliei, Paph. hennisianum. Vào thời gian ấy, đã nổ ra một cuộc tranh luận rằng các loài nói trên nên được coi là các biến loài của một thực thể riêng lẻ. Căn cứ vào số lượng nhiễm sắc thể và “típ karyo” mà chúng sở hữu, chứng minh rằng cả 5 dòng trên nên được xử lý là những loài riêng biệt.

Cây Paphiopedilum nigritum (Reichenbach fil.) mà Pfitzer đưa ra là cây đã được Công ty New Bulb ở Colchester, nước Anh nhập từ Borneo.Nhưng cây này nhỏ hơn, hoa của nó đậm màu hơn hoa của cây Paph. lawrenceanum, và nó rất giống với cây Paph. barbatum, và cũng như cây Paph. barbatum, những mụn của nó chỉ xuất hiện ở phần riềm trên của các cánh hoa. Bản mô tả đầu tiên về dòng Cypripedium nigritum do con trai của Reichenbach  vào năm 1882, nó bao gồm những điều, mà ta không thể nói là vô dụng, được đánh giá là đã xác định đúng những gì mà Reichenbach đã có được về cây lan này. Rolfe (1896) không muốn đưa ra kết luận về vấn đề này. Pfitzer (1986) thì ngược lại, đã xử lý cây Paph. nigritum như một biến loài của Paph. barbatum, và chúng ta cũng thấy chẳng có lý do gì mà không thừa nhận như thế.

Thật chẳng may, một vài cây Paph. lawrenceanum không lớn đã có hoa lại dán nhãn là Paph. nigritum và người ta cũng công bố như vậy, thí dụ trong Orchid Digest số 32(4) năm 1968, đã có những sai sót trong việc dịch đổi trong nuôi trồng và ngay cả trong các chương trình công nhận loài lan. Và trong cách nhìn nhận có phần lúng túng này, chưa ai xác định được rằng những cây lan được giải thưởng có phải là Paph. lawrenceanum một cách khoa học.

Paphiopedilum lawrenceanum là một trong những loài rất quan trọng trong nuôi trồng. Lá đài sau rộng mở cũng như mà của hoa đậm hơn chính là những đặc điểm để được đánh giá. Hơn nữa, từ ngày cây lan này đã được xác định là Paph. lawrenceanum, thường vẫn có những phản hồi một cách có sai sót, đó là những thực thể được lai tạo từ loài này vẫn còn là những nghi vấn.

Tuyên bố của Cribb rằng, những bản trình bày “rất đột biến” đối với Paphiopedilum lawrenceanum ít xảy ra trong tự nhiên (Cribb, 1998) là khá ngây thơ. Việc xếp loại về tầm quan trọng của bất kỳ loài nào thuộc Paphiopedilum đều chỉ được kiểm soát bởi thị trường mà thôi, và không bao giờ được đánh giá bởi số lượng cây lan chúng ta tìm thấy trong tự nhiên hoặc bởi số lượng cây lan theo môi trường sống. Song dù sao, sự xác định về số cây được gieo trồng bằng hạt (“nhân giống nhân tạo”)  tăng lên một cách đều đặn, điều đó gây áp lực lên việc giảm theo số lượng cây phát triển trong tự nhiên.

Nguồn gốc tên gọi

Đặt tên lawrenceanum để vinh danh ngài James John Trevor Lawrence (1831-1913), thời điểm đó là thanh viên Nghị viện Anh quốc và là Chủ tịch Hội Làm vườn Hoàng gia.

Mô tả

Paphiopedilum lawrenceanum là một loài có nguồn gốc thảo mộc, chiều cao tổng quát vào khoảng 50 cm. Mỗi thân có từ 5 đến 6 lá. Chiều dài của lá đến 27,5 cm, rộng 4 đến 6,5 cm, lá có hình ô van trứng ngược đến hình ê-líp hẹp, đầu lá có thể nhọn và cũng có thể tù, ở đó có ba răng cưa nhỏ. Mặt trên của lá có màu từ xanh cỏ đậm với những khảm màu xanh ô-liu  đến màu xanh đậm với những đốm màu xanh pha vàng. Mặt dưới của lá màu xanh xỉn. Vòi hoa thẳng đứng, cao tới 45 cm, và thường chỉ có một hoa, đôi khi có hai hoa. Cuống hoa màu hạt dẻ, có lông tơ. Lá bắc của hoa hình ô-van hoặc hình trứng, đầu lá tù hoặc nhọn, màu xanh với những đường vân màu hạt dẻ, lá bắc dài chừng 2 cm và bao phủ chừng một phần tư bầu nhụy. Bầu nhụy dài 4 đến 6,5 cm, có lông tơ, màu xanh với chóp màu hạt dẻ. Chiều ngang của hoa đạt 12 cm. Lá đài sau dài 6 đến 6,3 cm, chiều rộng cũng tương tự như vậy, lá đài sau hình bầu dục ô-van rộng đến gần như bầu dục, đầu tù và xẻ một chút ở điểm giữa. Hai bên riềm của nó thường hơi cong lên. Lá đài sau màu trắng với những đường vân dài ngắn khác nhau trải hết chiều rộng, vân thường màu xanh ở phần chân, phần trên có màu đỏ tía đậm giống màu rượu vang. Quanh riềm có lông cứng. Lá đài kép có hình mũi mác hẹp đến hình trứng ngược, đầu hơi tù, dài khoảng 3,7 đến 4 cm, rộng 1,5 cm; màu trắng anh lên màu xanh và trang trí thêm đường vân màu hạt dẻ. Các cánh hoa hình cái lưỡi màu xanh pha thêm màu đỏ tía ở phía đỉnh, dài đến 6,4 cm, rộng 1 đến 1,2 cm, dang rộng sang hai bên, phần ngọn hơi cong về phía sau. Riềm của cánh hoa có lông cứng  và mỗi bên được tô điểm thêm các mụn màu gần như đen. Môi có ba thùy, dài tới 6 cm, rộng 2,8 đến 3,2 cm. Hai thùy bên cuộn vào bên trong tạo thành cái ống và bên ngoài có một vài mụn. Thùy chính thì trũng sâu, tạo thành như cái mũ kết lật ngửa, màu xanh, pha lẫn màu hạt dẻ đậm. Phần lớn bên ngoài của cái túi có màu đậm hơn so với vùng ngọn, ở đó đôi khi có màu xanh xỉn. Miếng nhụy lép có hình bán nguyệt, phần chân của mép trên có khía hình V, phần mép dưới của đỉnh có ba răng nhỏ nằm ở giữa, răng giữa dài hơn răng hai bên. Miếng nhụy lép dài 9 đến 11 mm và rộng 1,2 cm, màu xanh pha vàng với phền mép màu đỏ tía, có một chi tiết trên miếng nhụy lép màu xanh đậm.

Phân bố và thói quen sinh trưởng

Ở Borneo. Paphiopedilum lawrenceanum được tìm thấy ở miền bắc Sarawak, trên độ cao 300 đến 450 m. Được biết loài lan này cũng được thấy dọc theo sông Lawas, gần Meringit, miền Bắc Borneo.  Chúng thường mọc thành những khu vực nhỏ trong rừng nguyên sinh, nơi có nhiều lá mục, trên những nơi có mùn, hoặc rêu phủ trên mặt đất, đôi khi cũng thấy cây này mọc trên rên phủ trên đá vôi.

Mùa ra hoa

Paphiopedilum lawrenceanum thường ra hoa từ tháng Mười một qua tháng Giêng, song những cây được đưa vào báo cáo thì chúng ra hoa vào thời điểm khác trong năm.

Biến loài và biến thể

Paphiopedilum lawrenceanum forma hyeanum (Linden fil. & Rodigas) Gruβ

Cây lan này được công bố đầu tiên bởi Linden fil & Rodigas, trong tạp chí Lindenia năm 1885 và lần đưa đi triển lãm đầu tiên bởi Linden’s Caompagnie Continentale trong cuộc họp của Hội Làm vườn Hoàng gia ở London vào tháng Tư năm 1886, ở đó cây lan này được “First Class Certificate” (FCC) với tên Cypripedium Hyeanum. Theo báo cáo trong The Garderners’ Chronicle, bản ngày 1 tháng Năm, 1886 (trang 567), túi (hài) của nó có màu xanh cỏ với những đường vân màu xanh đậm, các cánh hoa màu xanh, bao phủ bởi các lông ngắn, lá đài sau màu trắng có những sọc xanh và cuống hoa màu xanh và có lông. Các lá được mô tả có những đốm giống như Paphiopedilum lawrenceanum./.

P. lawrenceanum

Add a Comment

Your email address will not be published.