Paphiopedilum adductum

P. adductum

Phân giống (Sub-genus) Polyantha (Tiếp theo)

80) Paphiopedilum adductum Asher

Dẫn nhập

Năm 1979, sự quan tâm của Dr. Jack Fowlie cuối cùng được đặt vào lan hài trong bộ sưu tập của Ray Rands. Các cây làn này cứ tưởng là được ông bà Urban chuyển tới từ đảo Palawan của Philippines. Năm 1980, Fowlie đã viết như sau, “không còn nghi ngờ gì nữa, thực tế chúng ta đã có trong tay cây lan Paphiopedilum elliottianum  (O’Brien) Fowl., đã bị thất lạc từ nhiều năm nay. Việc chuyển đổi cây này được sự tán thành của J. Asher Jr. (Asher, 1980). Sau đó Asher đã xem xét lại và đi đến kết luận, đây là một loài riêng biệt, mới mẻ đối với khoa học (Asher, 1983) (Xem thêm Paph. elliottianum).

Đồng thời, thực tế là những thông tin về nguồn gốc của cây này đã đưa đến sự lầm lẫn, rằng loài lan này có nguồn gốc từ đảo Mindanao của Philippines.

Paphiopedilum adductum có quan hệ gần gũi với Paph. rothschildianum. Thực ra nó khác với Paph. rothschifianum bởi các cánh hoa uốn cong xuống cũng như hình dạng rất nhỏ của miếng nhụy lép. Trong khi đó miếng nhụy lép của hầu hết loài thuộc giống Paphiopedilum lớn hơn nhiều, đồng thời nó lại nằm trên đầu nhụy, che phủ lên phần hở được tạo nên bởi hai thùy bên của môi khi chúng cuộn vào trong, nổi bật lên một cái bướu có lông tơ ở mép, nằm trên phần chân của trụ hoa.

Nguồn gốc tên gọi

Đặt tên adductum vì nó có liên hệ với miếng nhụy lép được đỡ bởi một vật giống đai da.

Mô tả

Papiopedilum adductum là loài thảo mộc, thường mọc ở ở nơi có lá cây mục. Mỗi thân có khoảng 6 lá, lá có hình lưỡi ngược hoặc hình mũi mác ngược hoặc hình mũi mác, lá cứng, thường mọc hướng lên trên song qua năm tháng chúng ngả ra, đo chiều dài được 25 cm và rộng 3,7 đến 4,5 cm. Lá của cây lan này  có một vùng diềm trong suốt song rất hẹp, hơi quăn có lông tơ, đầu chót của nó tù, chẻ đôi thành cái khe chữ V. Trên các lá có một đường kẻ ở giữa khá rõ, thường kéo dài đến đầu lá. Mặt trên của lá có một khe màu xanh đậm, mặt sau của lá, ngay dưới cái khe đó là đường sống gân màu xanh nhạt hơn. Vòi hoa hình trụ, cao tới 40 cm, đường kính khoảng 3 mm, màu nâu đỏ, với những đường kẻ không đều màu vàng, với những vết sần có lông màu đỏ tía, lông dài chừng 1 mm. Thường thì trên mỗi vòi hoa có hai hoa, song thỉnh thoảng có nhiều hơn. Lá bắc của hoa dài 3 đến 4 cm, rộng 0,6 đến 1,3 cm. Ở đỉnh các lá bắc của hoa có màu ngả đỏ tía đến ngả xanh, gần phần chân của nó màu nâu đỏ, có những vân màu nâu đỏ nhưng đậm hơn. Bầu nhụy  dài 3,5 đến 4,5 cm, đường kính từ 6 đến 10 mm, nếu ta đem cắt ngang thì có hình ô-van rộng. Màu xanh của bầu nhụy ánh lên màu nâu đỏ lợt, có 6 đường kẻ màu nâu đỏ đậm hơn, chiều rộng của bầu nhụy là 2 mm. Lá đài sau dài 5 đến 6,5 cm, rộng chừng 3 cm, hình ô-van, nhọn đầu, khum lòng chảo, nghiêng về phía trước bên trên cánh giữa, mặt sau của lá đài có đường sống gân nổi rõ. Phần chân có màu xanh nhẹ, trở nên xanhh đậm hơn trên ba phần tư diềm, mặt ngoài nhẵn, hai phần ba phía trên đỉnh ở mặt ngoài có những chấm không đều nhau. Một phần tư phần chân ở mặt trong có những vết sần với những lông ngắn màu đỏ tía, đồng thời cả mặt trong lẫn mặt ngoài đền có những đường kẻ màu đỏ tía, rộng 1,5 mm. Lá đài kép thường dài hơn lá đài sau, thông thường lá đài kép dài từ 5 đến 7 cm, rộng 2,3 đến 3 cm. Chúng có hình ô-van, đầu nhọn, phần chần hơi lõm, lên đến nửa tính từ đỉnh thì trũng hẳn như lòng chảo. Màu sắc của nó cũng tương đồng với màu của lá đài sau, mặt trong có lông tơ. Đường vân ở giữa của lá đài bên tuy rất rõ nhưng nó không phải là một đường sống gân. Các cánh hoa dài 8 đến 15 cm, rộng từ 7 đến 8 mm ở phần chân, lên đến ngọn chúng gập lại một quãng chừng 2 mm. Hai cánh hoa cuộn xuống phía dưới và trơn nhẵn, song lên đến đỉnh lại được phủ một tuyến lông hướng trục, dầy đặc và sẫm màu. Một phần tư của phần chân có màu xanh nhạt với những chấm màu nâu đỏ có kích thước và hình dạng khác nhau, các đốm sẽ lớn ở về phía ngọn. Ba phần tư của phần ngọn ánh lên màu đỏ tía, với những đường sọc có vân đỏ, một vài sọc đó chạy hết chiều dài của cánh hoa. Cánh giữa của hoa trông giống như cái mũ kết lật ngửa và chìa ra phía trước. Cánh giữa hầu như vuông góc với bầu nhụy. Môi dài 3,6 đến 4,8 cm, rộng 1,5 đến 2,2 cm và không tai hai bên. Ở phần chân các mép cuộn vào trong, bên trong túi có những vết sần ở khu vực gần với khối phấn. Phần đáy của túi (môi) tạo thành cái khe dọc theo phân nửa ngoại biên. Hai bên và phần chân của môi có màu xanh nhạt, và hướng ra ngoại biên có màu nâu đỏ. Bên trong của môi giữa có những chấm nhỏ màu đỏ, các chấm đó trở nên lớn hơn khi chúng ở phía diềm. Miếng nhụy lép có thân vuông như hình chữ nhật, nếu cắt ngang sẽ có hình dạng chữ T. Miếng nhụy lép dài 9 mm, rộng 4 đến 7 mm, nhiều lông, ở tâm lại nhẵn.

Phân bố và thói quen sinh trưởng

Paphiopedilum adductum có nguồn gốc từ Philippines, ở độ cao 1.300 m, gần Impasugong thuộc tỉnh Bukidnon, đó là vùng trung-bắc của đảo Mindanao.

Mùa hoa

Paphiopedilum adductum ra hoa quanh năm. Có thể có những nhánh sau khi đã trưởng thành sẽ ra hoa không nhất định vào thời gian nào.

Các biến loài và biến thể

Hiện tại có thể có những bất đồng cho rằng Paph. anitum là biến loài của Paph. adductum. Hiện còn những điểm nghi ngờ về hình thái thực tế albino của loài này. Hiện tại những nghi ngờ này cũng chưa được làm rõ ./.

Add a Comment

Your email address will not be published.