Pahiopedilum anitum

P. anitum

Phân giống (Sub-genus) Polyantha (Tiếp theo)

81) Pahiopedilum anitum Golamco

Dẫn nhập

Không còn nghi ngờ gì nữa, dòng lan này có quan hệ rất gần với Paphiopedilum adductum Asher. Vì thế nhiều người cứ thích tranh cãi rằng hai cây này hoặc là một loài phụ (subspecies) hoặc là một biến loài của một loài đơn nào đó, trong khi số khác thì tìm thấy những điểm khác biệt giữa hai loài và khẳng định rằng đây là một loài riêng biệt. Chúng tôi cho rằng như vậy là tốt đến từ cả hai phía.

Các cây lan được cho là đã tìm thấy trong một cuộc tìm kiếm Paphiopedilum superbiens (Reichenbach fil.) Stein, bởi những nhà sưu tập địa phương trên hòn đảo Philippine của Mindanao vào tháng Hai năm 1996.

Một người buôn lan của Philippine tên là Andres S. Golamco, đã mô tả trên báo Philippine Orchid Society, rằng đó là một loài riêng biệt. Ông ấy đã chỉ ra những điểm khác biệt giữa Paph. adductumPaph. anitum bằng một loạt sự khác biệt như các điều kiện sinh trưởng, màu sắc và kích thước của hoa, và thời điểm ra hoa. Sự khác nhau về nơi sinh trưởng (miền đông Miandanao với miền bắc Mindanao), độ cao (220 đến 1.000 m với 1.250 đến 1.350 m), và môi trường sinh sống (“nơi thật râm mát, trên cây cao 40 đến 60 ft và có đá lớn và trên những giải tạo thành bởi lá cây và những mảnh vụn của vỏ cây” so với “ ánh sáng vừa phải, nơi có nhiều cỏ với những cây thấp 20 đế 25 ft trên những nơi có đá mịn lẫn cát bên sông và che phủ bởi mùn và cây nhỏ”), như vậy khó mà ta có thể lẫn lộn giữa hai loài riêng biệt này. Ngay cả nhu cầu về độ ẩm cũng khác (80 đến 100% so với 75 đến 80%) và thời điểm ra hoa (từ tháng Tư đến tháng Chín so với ra hoa quanh năm). Cây lan được định danh là Paph. anitum thì to hơn hẳn cây được định danh là Paph. adductum, cả hai được xét trên phần thực vật của chúng (lá) cũng như quá trình sinh trưởng (vòi hoa và hoa). Một lần nữa dù có các đặc điểm khác biệt song cũng chỉ ở cấp độ một loài nằm trong giống Paphiopedilum mà thôi. Cũng chẳng cần xem xét số lượng hoa trên mỗi cây, vì điều đó phụ thuộc vào  môi trường sống cũng như cách chăm sóc của người trồng. Vậy còn lại là, sự khác biệt rõ rệt về màu sắc của hoa và một vài điểm khác biệt về hình dạng của các chi tiết trong một bông hoa. Mọi người nói nhiều về màu sắc của hoa và không có ý kiến gì khác trong cách nhìn nhận đối với đặc điểm từ khác đến rất khác của tất cả các loài trong cùng một giống và trong nhiều cây khác trong họ hàng nhà lan. Vì thế, màu hoa của Paph. anitum đem so sánh với màu sắc được nhìn thấy từ hoa của Paph. adductum, không thể nói chắc rằng chúng là hai loài riêng biệt. Và như vậy, chỉ có thể nhận biết sự khác biệt một chút bằng cách ngoại suy về hình dạng của những chi tiết của hoa và miếng nhụy lép.

Hơn nữa, những sự khác biệt không đáng kể này cũng như sự khác nhau về kích thước tổng quát của cây, cũng như sự khác nhau về kích thước  của hoa, hãy nhìn kỹ vào Paph. anitum (đặc biệt là khi mà các cánh hoa ở phía dưới túi)  và đặt nó đứng đối diện với cây được chọn là Paph. adductum. Cách quan sát khác nhau này rất rõ và nhận thấy ngay rằng đây là hai loài riêng biệt, đó là cách nhìn nhận của những người trồng lan, nếu không muốn nói là tất cả. Trên quan điểm của những nhà khoa học và phụ thuộc vào số điểm mà người ta có thể dự kiến cho những điểm khác biệt, Paph. anitum có thể được điểm cao nhất như là một loài phụ của một biến loài từ Paph. adductum. Golamco viết rằng, ban đầu nó đã được xác định bởi Danilo A. Tiu, một chuyên gia về lan của Philippines, đó là Paph. adductum là loài phụ của anitum, song chúng tôi không thể tìm thấy bất kỳ dấu vết nào của một ấn phẩm như vậy.

Nguồn gốc tên gọi

Theo Golamo, cái tên anitum là đặt theo tên một thần loại của Pilippines. Sự giải thích trong các ấn phẩm ban đầu còn mơ hồ và không có kết luận cuối cùng.

Mô tả

Paphiopedilum anitum có nguồn gốc thảo mộc, mọc ở những nơi lá rụng trên nền rừng hoặc ở những hốc đá và khe đá ở đó chứa đầy mùn. Rễ của loài này khá dài và mập. Mỗi thân có từ 7 đến 10 lá mọc xiên xiên hướng lên trên. Lá dai như da, hình thuôn hoặc hình mũi mác ngược, đầu là có khi nhọn khi tù, tại đó có ba răng. Thông thường mỗi lá dài tới 75 cm, rộng từ 5 đến 10 cm. Mặt trên của lá có màu xanh ô-liu đậm, với những vân khảm màu xanh pha xanh dương rất đậm. Mặt dưới của lá màu xanh pha xanh dương nhạt đến xanh xỉn. Vòi hoa dài tới 60 đến 150 cm, đứng thẳng, mang trên nó từ 3đến 7 hoa. Thỉnh thoảng, có lá bắc của lá chiếm tới một phần ba tính từ gốc. Lá bắc của hoa dài 5 đến 6 cm, rộng 3 đến 3,5 cm. Màu của lá bắc hoa là màu xanh ô-liu đến màu đất, ánh lên và/hoặc với những đường vân có màu nâu thẫm gần như đen hoặc màu đỏ như gỗ dái ngựa, và có lông tơ mịn. Hoa của loài này lớn, lớn hơn cả chiều ngang của chúng, cao 20 đến 30 cm, rộng 5 đến 12 cm. Lá đài sau dài từ 6 đến 7,5 cm, rộng 4 đến 5,5 cm. Lá đài sau trũng lòng chảo, che lên cái túi (hài). Một phần ba lá đài phía ngọn có màu xanh vàng đến cam vàng. Hai phần ba phần chân có những sọc chạy theo chiều dọc với màu nâu rất đậm (gần như đen), các đường kẻ sọc làm cho khu vực của nó ánh lên một màu gần như đen. Các lá đài bên dính lại với nhau tạo thành lá đài kép. Lá đài kép cũng có hình dạng như lá đài sau nhưng chúng nhỏ hơn một chút, chúng dài 4 đến 7 cm, rộng 4 đến 5,3 cm. Lá đài kép có màu  xanh vàng đến màu cam vàng, có những đường kẻ màu hạt dẻ. Các cánh hoa nhọn dần về phía đỉnh, đôi khi chúng luồn dưới túi, đôi khi lại gợn sóng giống như Paph. adductum. Các cánh hoa có các đường kẻ, phần đầu gập lại làm cho chúng hẹp hơn, chiều dài của các cánh hoa tới 18 cm, rộng 1 đến 1,5 cm, có vết sần ở gần đỉnh màu vàng kem, xanh vàng hoặc cam vàng, càng về phía ngọn màu sắc càng dậm lại. Cái túi (hài) trông giống cái mũ kết lật ngửa. Có chi tiết giống cái tai và đường rãnh soi ở đầu. Môi dài 4,5 đến 5 cm, rộng 3 đến 4 cm, màu kem đến vàng xỉn hoặc vàng kim, ánh lên mà đỏ gỗ dái ngựa. Miếng nhụy lép hình chữ nhật. Phần chân phẳng, có một ke rãnh ở tâm. Đầu nhụy lép vuông và ở giữa xẻ đôi, hai phần thường chồng lên nhau. Các diềm của nhụy lép đều tròn và nhiều lông. Cắt ngang miếng nhụy lép thấy hình chữ V và cái cuống của nó không che mất đầu nhụy. Miếng nhụy lép chỉ dài 9 đến 12 mm, rộng 6 đến 9 mm.

Phân bố và thói quen sinh trưởng

Paphiopedilum anitum được tìm thấy ở miền đông đảo Mindanao, gần phề phía nam của Surigao, trên độ cao 220 đến 1.000 m. Cây mẫu được tìm thấy trên độ cao 600 m. Loài lan này mọc nơi có nhiều bóng râm ở vùng rừng có nhiều mưa, trên triền đất cao 12 đến 18 m so với mặt đất. Hầu hết nền rừng có đá lộ thiên phủ đầy lá, vỏ cây, cành cây nhỏ và các thứ khác từ cây đã mục. Nơi đã sưu tập được cây mẫu có một lượng lớn loài an này, có thể đến vài ngàn cây.

Mùa hoa

Trong tự nhiên, loài lan này ra hoa từ tháng Tư đến tháng Chín./.

Add a Comment

Your email address will not be published.