Paphiopedilum intaniae

P. intaniae

Phân giống (Sub-genus) Polyantha (Tiếp theo)

84) Paphiopedilum intaniae Cavestro

Dẫn nhập

Paphiopedilum intaniae được tìm thấy ở vùng núi đá vôi, gần Gunong Morowali, thuộc miền đông Sulawesi, vào tháng Hai năm 2000. Rủi là bản mô tả đầu tiên và lai lịch cây lan đầu tiên được nuôi dưỡng dẫn đến sự không khẳng định được nguồn gốc của nó. Đồng thời, cây lan có nhiều hoa này được ghi nhận là một loài đẹp trong phân giống Polyantha.

Nguồn gốc tên gọi

Tên Paphiopedilum intaniae được đặ theo tên người con gái của Pak Ayub, tên là Intan, một người trồng lan nổi tiếng của Indonesia.

Mô tả

Paphiopedilum intaniae có nguồn gốc thảo mộc. Thân ngắn, và thường có từ bốn đến bảy lá thẳng, đầu tù, màu xanh nhẹ nhàng, không có vân, lá dài tới 40 cm, rộng từ 4,5 đến 6 cm. Vói hoa hướng lên trên, dạng ống, bao phủ một lớp lông mịn màu nâu, cao từ 35 đến 50 cm. Trên mỗi vòi hoa có từ 3 đến 8 hoa, các nụ hoa được bao bọc bởi lá bắc hoa lớn, màu nâu. Các lá bắc này cũng phủ kín lông mịn màu nâu với những đường sọc màu hạt dẻ. Mỗi lá bắc của hoa dài 2,5 cm, rộng 0,8 đến 1 cm. Bầu nhụy màu hạt dẻ đậm, bao phủ bởi lớp lông ngắn, dài chừng 2,5 và rộng 0,6 cm. Các cuống hoa thì cong võng, dài chứng 1,1 cm, màu nâu hạt dẻ và phủ một lớp lông. Đo chiều ngang của hoa được từ 10 đến 12 cm. Lá đài sau và lá đài kép màu trắng, phần chân ngả màu xanh. Cả hai lá đài sau và kép đều có những sọc màu nâu. Lá đài sau hình mũi mác thuôn, đầu nhọn có lông tơ ở phần ngọn, dài 4,4 đến 4,8 cm, rộng 1,6 đến 1,9 cm. Lá đài kép hình mũi mác ô-van, hơi lõm, đầu nhọn và có lông tơ ở đỉnh, dài chừng 4 cm, rộng 1,5 cm. Các cánh hoa có màu trắng đến trắng pha xanh, nửa dưới có chấm nâu, nửa trên màu nâu và có các kẻ sọc màu hạt dẻ. Các cánh hoa hẹp, thẳng, hơi cong những diềm không quăn, các diềm của chúng có lông tơ ở phần ngọn, cánh hoa dài 6,5 đến 7 cm, rộng 0,4 đến 0,5 cm. Trên diềm của phần chân có 4 đến 7 chi tiết trông giống cái mụn có đường kính chừng 1 mm, các mụn đó đều phủ một lớp lông màu đen. Cánh hoa giữa tạo thành ba thùy. Thùy giữa tạo hình cái túi sâu, hai thùy bên cuộn lại ở phần dưới miếng nhụy lép, tạo thành một hình giống cái ống chứa khối phấn. Cánh hoa giữa không lớn, dài từ 3 đến 3,5 cm, rộng 1,6 đến 1,8 cm, màu vàng xỉn với màu nâu xỉn. Miếng nhụy lép thì lồi, hẹp và phần chân có lông mịn, ở giữa trông như mắt lưới, phần đầu của nó dài 9 mm, rộng 5 đến 6 mm, cạnh phần đầu có đường xẻ ở giữa rộng 1 mm.

Phân bố và thói quen sinh trưởng

Paphiopedilum intaniae là loài đặc hữu của đảo Sulawesi. Cây mẫu được sưu tập ở trung tâm vùng miền đông của hòn đảo, nơi có những dải đá vôi trên triền dốc của Gunong Morowali, cách mặt biển chừng 700 m. Các cây được tìm thấy ở trên cỏ, nơi hoàn toàn dưới ánh nắng mặt trời, song đôi khi cũng bị các đám mây che phủ.

Mùa ra hoa

Paphiopedilum intaniae ra hoa từ tháng Ba đến tháng Năm./.

Add a Comment

Your email address will not be published.