Pahiopedilum kolopakingii

P. kolopakingii

Phân giống (Sub-genus) Polyantha (Tiếp theo)

85) Pahiopedilum kolopakingii Fowlie

Trùng tên

Paphiopedilum kolopakingii Fowlie, lapsus calami

Dẫn nhập

Lần đầu tiên người ta tìm thấy loài lan Paphiopedilum kolopakingii ở Borneo và được mang về Đông Java vào năm 1982, rồi nó được nhà buôn có tên là Liem Khe Wie (A. Kolopaking). Bởi tính chất thực vật và vì cây này được sưu tập ở Borneo cùng với cây Phalaenopsis maculata, là một loài thường được trồng cùng khu vực với Paph. rothschildianum, vì vậy Liem Khe Wie nghĩ rằng cây lan này cùng loài với cây Phalaenopsis hoặc là một biến loài từ cây này. Cây lan sưu tập đầu tiên ra hoa trong vườn trồng của người ấy vào cuối năm đó và chứng minh về mặt khoa học, đây là một loài mới. Paph. kolopakingii nổi bật vì những cái lá của nó, mỗi lá dài đến 60 cm, rộng tới 8 cm và vì thế chỉ Paph. gigantifolium mới đáng là đối thủ của nó.

Đã có nhiều cuộc thảo luận và cũng có những nghi ngờ về nguồn gốc của loài lan này. Có người nói rằng, Paph. kolopakingii là một loài lan lai nhân tạo giữa Paph. haynaldianum với Paph. philippinense. Điều này không có ý nghĩa gì với cây lan được đem về từ nơi hoang dã.

Trong hệ thống luật lệ của Hội Hoa lan Hoa kỳ, những cây lan này đã được giải thưởng tới hai lần, khi đó gọi là Paphiopedilum stonei var. latifolium “Ruth Kennedy” (AM/AOS 1981) và lần thứ hai được gọi là Paphiopedilum stonei var. latinfolium “Magnifico” (CCM/AOS 1988). Các cây này thực ra không đại diện cho Paph. stonei, nhưng cho thấy nó có mối quan hệ rất gần với Paph. kolopakingii. Người ta đề nghị rằng Paphiopedilum stonei var. latifolium là một loài lan lai giữa Paph. kolopakingii với Paph. stonei, nhưng điều này dựa trên bông hoa đã hư hỏng. Cũng không may, cây lan này được đem ra nhân giống lại mang cái tên “Paphiopedilum stonei” và chính vì thế mà sau này đã có nhiều sự hiểu lầm và cũng có nhiều lúng túng. Vừa mới đây thôi, cây lan này được mô tả như là một loài riêng biệt dưới cái tên Paph. platyphyllum.

Nguồn gốc tên gọi

Đặt tên kolopakingii để tôn vinh A. Kolopaking (Liem Khe Wie), một người trồng lan để kinh doanh người Indonesia.

Mô tả

Loài lan này sống ở nơi có lá mục tụ lại ở những khe đá và ờ các khe nứt trên sười núi. Thân rễ của nó thì ngắn và có thói quen mọc thành từng bụi. Rễ cây lan khá mập và dài, nó dài tới 45 cm với đường kính 1 cm. Mỗi cây có mười hai lá, mỗi lá dài từ 40 đến 60 cm, rộng tới 8 cm, lá có dạng đai hẹp, thường có màu xanh đậm không đồng nhất, nhưng đôi khi có những vết khảm nhẹ. Vòi hoa hướng lên trên, hơi nghiêng, dài 40 đến 70 cm, đường kính khoảng 1 cm, và nó bị uốn cong xuống khi nó mang tới mười lăm hoa, các hoa đó thường nở ra cùng một thời điểm. Đo chiều ngang của mỗi hoa được 10 cm. Lá bắc của hoa dài 4,5 đến 5cm, rộng 1,5 cm, tạo thành hình ba cạnh, đầu nhọn. Lá đài sau hình ê-lip hẹp, nhọn đầu, cao 5 đến 6,5 cm, rộng 2,2 đến 3,5 cm. Màu của lá đài sau là trắng, đôi khi ánh lên  màu xanh, in dấu bởi từ chín đến mười lăm sọc kẻ có màu đỏ, hoặc nâu đỏ. Một vài trong số sọc kẻ này nổi bật lên và kéo dài gần như hết chiều dọc của lá đài, cho đến tận chân. Có một ít sọc lại có thêm những sọc phụ rải rác kéo từ gốc lên lưng chừng lá đài. Lá đài kép cũng tương tự như lá đài sau nhưng nhỏ hơn và màu sắc của nó thường kém nổi bật hơn, chiều dài của lá đài kép thường từ 3 đến 4 cm, rộng 2 đến 2,6 cm. Các cánh hoa cũng có hình đai, phân nhánh thành một góc chừng 45 độ, và dài tới 7 cm, rộng 8 mm. Cánh hoa có màu xanh tuyền và có từ bảy đến chín sọc màu đỏ chạy theo chiều dọc. Môi màu xanh với các vân màu nâu, trông như cái mũ kết lật ngửa, dài 4,5 đến 6 cm, rộng 2 đến 3 cm, trên túi có một vật giống cái móng dài 1,5 đến 2,5 cm, hình thành bởi hai thùy bên cuộn vào. Phần chân của cánh giữa màu trắng tuyền. Miếng nhụy lép hình bầu dục, cao 1 đến 1,5 cm, chiều ngang 1 cm, với với nhiều lông xoắn dọc theo hai bên, song chỉ có ở mặt trên. Phần đầu của miếng nhụy lép bị cụt và hơi ngước lên trên.

Phân bố và thói quen sinh trưởng

Paphiopedilum kolopakingii chỉ được tìm thấy ở miền trung Kalimantan (Borneo của Indonesia), gần thượng nguồn con sông Barito. Chúng sinh trưởng ở những sườn núi đá trên cao 600 đến 650 m.

Mùa ra hoa

Paphiopedilum kolopakingii được cho là ra hoa vào bất cứ thời điểm nào khi có một chồi cây mới đã trưởng thành. Nhìn chung, hoa nở vào tháng Tám và tháng Chín

Biến loài và biến thể

Paphiopedilum kolopakingii forma topperi (Braem & Mohr) Braem & Chiron

Tên cũ

Paphiopedilum topperi Braem & Mohr

Dẫn nhập

Braem & Mohr đã từng công bố Paphiopedilum topperi như một loài riêng biệt. Sau khi xem xét lại qua các tài liệu và khảo sát một số cây vào những năm trước, chúng tôi đi đến kết luận rằng Paph. topperi nên đưa xuống là một biến màu của Paph. kolopakingii. Chúng tôi không tiếp tục tìm tòi dòng lan này vì người nuôi dưỡng chúng đã thuyết phục chúng tôi rằng, đây chính là Paph. kolopakingii, còn cây lan lai với forma topperi thì khác hẳn với những gì chúng tôi thu thập được với định danh của Paph. kolopakingii. Lời đề nghị của Cash (1991) rằng Paphiopedilum topperi nên được coi là một thể albino của Paph. kolopakingii, cũng có thể như vậy vì  hoa của Paph. kolopakingii forma topperi được tô điểm thêm những sọc màu nâu đậm với những chấm có cùng màu.

Paphiopedilum kolopakingii forma katherinae Koopowitz

Đây là một cây albino. Hoa màu xanh và trắng với một miếng nhụy lép màu vàng./.

Add a Comment

Your email address will not be published.