Paphiopedilum sanderianum

P. sanderianum

Phân giống (Sub-genus) Polyantha (Tiếp theo)

94) Paphiopedilum sanderianum (Reichenbach fil.) Stein

Tên cũ

Cypripedium sanderianum Reichenbach fil.

Cùng loài

Cordula sanderianum (Reichenbach fil.) Rolfe

Cypripedium foerstermannii Hort. nomen nudum

Dẫn nhập

Vào năm 1885, Frederick Sander đã phái nhà sưu tập lan người Đức tên là Förstermann đến Borneo để tìm kiếm loài Paphiopedilum stonei var. platytaenium, một thể đột biến đang có một cái giá không tưởng. Sander đã không nhận ra đó là một cây đột biến, và trong tự nhiên, Förstermann đã không tìm thấy cây lan đó. Song, trong thời gian đi tìm kiếm Förstermann đã bước qua cây lan, một cây lan hài mới, và ông ta đã chuyển cây đó về cho Sander, và cho đến mùa xuân 1886, Sander đã làm cho nó ra hoa. Như thường lệ, con trai của Reichenbach đã được gọi đến để mô tả và công bố cây lan này, đương nhiên đây là một loài mới đối với giới khoa học. Từ đó, chúng có tên là Cypripedium sanderianum (Reichenbach fil., 1886). Khi xuất hiện cùng với các cây lan khác được tìm thấy ở Borneo vào cùng thời điểm, thì địa điểm lại đưa ra một chỉ dẫn sai, nói rằng ở Malayan Archipelago. Điều này đã đánh lừa các nhà sưu tập khác. Cribb (1987, 1997) đã thông báo rằng cây lan đó rất ít thấy được nuôi trồng , và có thể “Khi chuyển thế kỷ, có thể nó sẽ biến mất trong các bộ sưu tập về lan”. Điều đó có thể là sự thật ở Great Britain, song chúng ta vẫn tin có chứng cớ rằng cây Paph. sanderianum vẫn còn hiện diện ở một vài bộ sưu tập sau thời gian đó. Trong bộ sưu tập của một Nghị viên của Pháp, họ đã dùng nó để thực hiện việc lai tạo trong khoảng năm 1910, và trong bộ sưu tập nổi tiếng của Ros ở Florence, Italy, có thể chúng đã tồn tại lâu hơn.

Hơn nữa, vào đầu thế kỷ thứ 20, Paph. sanderianum trở nên nổi tiếng chỉ thông qua các tranh ảnh, một số trong đó đã không thu thập được từ trước. Những tranh ảnh này bao gồm các bức ký họa của John Day,  những bức tranh này có thể tham khảo trong cuốn sách thảo mộc của Kew; một minh họa được chuẩn bị bởi người nổi tiếng đó là Walter Fitch cho cuốn Reichenbachia của Sander (1898); một minh họa nữa trong cuốn The Proceeding of the Linnean Society of New South Wales (1889); và một số các tranh ký họa, như trong cuốn the Deutsche Gartenzeitung (1886), tác phẩm A Manual of Orchidaceous Plants (1889) của Veitch, và cuốn The Garderners’ Chronicle (1896).

Cây lan này trở thành bí ẩn cho đến nay vấn là một dấu hỏi. Năm 1974, Schaffer đã đề nghị đó có thể là một cây lan lai hoặc là một thứ quái dị của loài Paph. rothschildianum.

Năm 1984, Alexander cho biết rằng Paph. sanderianum, cuối cùng đã được tìm thấy ở Sarawak trên Borneo bởi Ivan Niesen vào năm 1978. Vào những năm đầu của 1980, cây lan này được chào bán với giá $10.000 (!) trong danh mục lan dòng Paph của một người trồng lan ở California. Vào năm 1985, một kỹ sư người Australia tên là Paul Mattes đã tìm ta nơi sinh sống của loài này và đã mang đến châu Âu một số cây. Hai trong số cây này đã được trồng ở vườn thực vật Frankfurt, thuộc Đức, và đã ra hoa ngay vào mùa Giáng sinh năm 1985. Từ đó, nhiều nguồn được nhập vào châu Âu, đồng thời người ta cũng nhân giống ra nhiều nên nó trở nên phổ biến.

Paphiopedilum sanderianum là một trong những loài lan đẹp trong một giống, và không còn nghi ngờ gì nữa, nó là địch thủ của loài Paph. rothschildianum. Năm 1889, Tennison-Woods tuyên bố, “nó là một loài hoa đẹp nhất và trở thành một tiêu chuẩn để đánh giá một bông hoa đẹp”. Trong một thời gian dài sau đó, trong một bản mô tả đầu tiên, vào năm 1886, Reichenbach đã gọi nó “là một loài lan làm cho người ta vô cùng ngạc nhiên về vẻ đẹp của nó”.

Nguồn gốc tên gọi

Tên của một nhà trồng lan nổi tiếng người trồng lan ở St. Albans, được sinh ra ở Đức là Heinrich Friedrick Conrad “Henry Fredrick” Sander để đặt tên cho loài Paphiopedilum sanderianum.

Mô tả

Paphiopedilum sanderianum là một loài có nguồn gốc thảo mộc, thường mọc ở những nơi có lá mục. Thân loài này ngắn, có chừng 6 lá, lá hình đai, dài tới 45 cm, rộng chừng 4,5 cm. Mỗi lá có màu sáng và đỉnh lá chia hai thùy không bằng nhau. Mặt trên của lá có màu xanh tuyền, mặt dưới có đường sống gân nổi rõ, ở phần gốc lá có những chấm màu đỏ tía. Vòi hoa hướng lên trên, màu đỏ tía, bao phủ một lớp lông ngắm màu đỏ tía, chiều dài vòi hoa tới 60 cm, đường kính 0,5 cm, và thường mang hai đến năm hoa. Lá bắc của hoa hình ê-lip hẹp, phần đầu tròn, thường dài 8 cm, rộng 3 cm. Màu của lá bắc hoa là đỏ tía, song ở đỉnh lại có màu xanh, diềm có lông mịn, có sọc màu đỏ đậm. Bầu nhụy màu trắng, dài tới 7 cm và đường kính khoảng 1 cm, như vậy có sáu cạnh và có lông rải rác. Các bông hoa có chiều cao chừng 7 cm, không tình đến các cánh hoa gợn sóng và kéo dài ra. Lá đài sau có hình lá rộng, đầu nhọn, đỉnh cong úp vào trong, có đường sống gân, và dài chừng 5,5 cm, rộng khoảng 2,5 cm. Trên lá đài sau có lông cứng, đặc biệt là trên đường sống gân ở phần ngọn, màu vàng pha xanh xỉn với diềm màu đỏ tía, với khoảng mười đường kẻ sọc màu đỏ pha nâu. Lá đài kép là hình mũi mác hẹp, có hai đường sống gân, đầu lá tròn đến như bị cắt cụt, lá trũng sâu, dài chừng 5 cm và rộng 2 cm. Màu sắc và lông tơ của lá đài kép tương tự như lá đài sau, song khoảng cách những đường kẻ sọc hẹp hơn. Cánh hoa thẳng và phân chân xoắn lại, chúng chĩa ngang chừng 3 cm rồi đột ngột quặt xuống gập lại tạo thành hai sợi nhỏ, chiều dài của cánh hoa chừng 80 cm. Đã có một tài liệu nói rằng cánh hoa của loài này dài tới 1 m. Phần chân của cánh hoa chỉ rộng 5 mm và 9 mm ở “phần vai”, đến phần đầu mút thì gập lại từ 1,5 đến 2 mm. Các cánh hoa có những lông thô, với màu xanh pha vàng xỉn màu, có những đốm và chấm màu đỏ pha nâu ở phần chân, nhưng khi ra đến ngọn thì hoàn toàn là màu đỏ tía. Môi có màu xanh pha vàng anh lên màu đỏ tía, cuộn hẳn vào trong, hướng lên trên, dài 5,5 đến 6,5 cm, rộng 2 đến 2,5 cm. Phần mép của chúng cuộn vào trong. Miếng nhụy lép hình chữ nhật, cạnh có nhiều lông.

Phân bố và thói quen sinh trưởng

Paphiopedilum sanderianum được tìm thấy ở Borneo, phía bắc Sarawak, gần biên giới với Brunei ở độ cao 150 đến 600 m. Các cân lan này mọc thẳng đứng theo vách đá, hướng đông bắc của những vách đá vôi, ở đó có nhiều bóng râm, và ánh sáng nhẹ vào buổi sáng. Rễ của cây lan bám vào rêu hoặc lá mục, gần nơi có nước trong các khe đa vôi. Nhưng cũng có khi tìm thấy chúng trên các thân cây có nhiều rêu và nơi tích tụ các mảnh vỏ vụn.

Mùa hoa

Paphiopedilum sanderianum (như hầu hết các loài lan hài thuộc phân giống Polyantha) ra hoa quanh năm một khi cây đã phát triển đầy đủ. Trong tự nhiên cây thường ra hoa vào cuối tháng Ba qua tháng Sáu.

Các biến loài và biến thể

Hiện nay còn có nhiều nghi ngờ về sự tồn tại của một albino Paph. sanderianum. Chưa ai chứng mình được điều đó. Cho đến nay, không có biến loài nào được mô tả./.

Add a Comment

Your email address will not be published.