Paphiopedilum platyphyllum

P. platyphyllum

Phân giống (Sub-genus) Polyantha (Tiếp theo)

96) Paphiopedilum platyphyllum Yukawa ex Gruβ

Cùng loài

Paphiopedilum fumi Hort. (nomen nudum)

Paphiopedilum sronei var. latifolium Hort. (nomen nodum)

Paphiopedilum sugiyamii Hort. (nomen nudum)

Dẫn nhập

Dòng lan này thường được biết dưới cái tên Paphiopedilum stonei var. latifolium. Theo Gruβ, chúng được tìm thấy bởi Mr. Toyoshima vào năm 1964 ở Sarawak, Borneo.  Năm 2003, Quené cho rằng cây lan này đã được phát hiện bởi Dr. Yoshishige Tachibana trên độ cao 800 m, gần đỉnh của Bukit Kana. Theo báo cáo của Quené, Tachibana đã tìm ra một số lượng khoảng 30 cây lan và đã đem về 20 cây. Mười lăm cây trong số đó đã chuyển cho Fumimasa Sugiyama của Yamata – Noen Orchids, là người sau đó vài năm, đã gởi một cây tới Norwood Schaffer ở Baltimore, USA. Cây lan đã được chuyển tiếp tới nhà địa chất George Kennedy, là người đã định ra cái tên “Paphiopedilum stonei var. latifolium” và đã nhận được giải “legendary” của Hội Hoa lan Hoa kỳ.

Trải qua nhiều năm, những người trong cuộc đã đề nghị rằng, cây đó thực ra là một cây lai nhân tạo từ Paph. stonei mà không tiết lộ cây cha mẹ thứ hai. Khi thực hiện bằng dụng cụ đếm nhiễm sắc thể thì thấy nó có sự quan hệ rất gần với Paph. stonei (Karasawa, 1986). Tất cả các cây được biết đã được trồng là những cây con của cây đã được giải thưởng ở Hoa kỳ dưới định danh sinh sản vô tính “Ruth Kennedy”. Theo như Gruβ (2001), Yukawa đã nghiên cứu các tính chất vi phân tử và đã cho biết rằng “nhân và cấu tạo DNA thể hạt cho thấy có một sự tương đồng đáng kể với các cây lan Paph. stonei, Paph. kolopakingii, và Paph. supardii”. Bản nghiên cứu này không bao giờ được công bố.

Chẳng những các ấn phẩm của Gruβ mà cả các bài báo được minh họa đẹp của Quené cũng không vượt qua được những lời đồn đại. Không chỉ những bài viết không đưa ra được dữ liệu nào có thể dùng để làm rõ điều bí ẩn về thực thể của cây lan, mà thực tế là Gruβ cũng như Quené đã không đưa ra được bằng chứng, khác nào là nuôi dưỡng những nghi ngờ về tính hợp lệ của dòng này ở cấp độ loài.

Nguồn gốc tên gọi

Tên Paphiopedilum platyphyllum được đặt căn cứ vào các lá của nó có chiều rộng quá khổ.

Mô tả

Paphiopedilum platyphyllum có nguồn gốc thảo mộc, nghe nói chúng thường mọc trên đá có rêu phủ còn rễ của chúng chui luồn nơi lá mục. Đây là một loài có thân rễ ngắn. Rễ mập, dài và có lông. Mỗi thân có tới 7 lá, mỗi lá dài tới 45 cm, rộng tới 8,5 cm, không có vân, hình cái lưỡi, đầu nhọn, hai bên mặt trên lá gập theo đường sống gân ở mặt dưới của lá. Mặt trên của lá có màu xanh lá ánh lên sắc xanh dương, mặt dưới của lá có màu xanh sáng hơn. Vòi hoa hướng lên trên, dài tới 40 cm. Lá bắc của hoa hình mũi mác, phủ một lớp lông thưa, màu xanh ngả vàng sáng có những kẻ sọc màu nâu, dài tới 6,5 cm, rộng 3,5 cm. Hoa có kích thước lớn, cánh hoa dầy, bóng; trong thiên nhiên hoa đạt kích thước 14 đến 19 cm. Bầu nhụy và cán hoa màu xanh pha vàng, có những chấm màu nâu đỏ. Màu của lá đài là màu kem nâu mờ, với diềm màu trắng, phần trong có những kẻ sọc nâu, mặt ngoài cũng có những chấm nâu. Các cánh hoa màu nâu đất pha xanh, có những chấm nâu bên trong có những mụn màu nâu hạt dẻ. Môi có màu kem nâu đất, thêm những vân và chấm nâu; miếng nhụy lép cũng có màu nâu đất, phủ lông màu nâu. Bầu nhụy hình chiếc ống suốt hẹp, dài tới 7,5  cm, rộng 0,6 cm. Lá đài sau hình ô-van đến hình mác, đầu nhọn, mặt trong phủ những lông ngắn, mặt ngoài có đường sống gân nổi rõ, dài 6,2 đến 7 cm, rộng 4 đến 4,2 cm. Lá đài kép hình ô-van rộng, đầu nhọn, mặt ngoài có hai đường sống gân, dài 5,6 đế 6,3 cm, rộng 2,4 đến 3,3 cm. Các cánh hoa thẳng, nhọn đầu, xoắn ốc, nhất là ở phần đầu cánh, cả hai mặt của cánh hóa đều có lông; dài 14,3 đến 16 cm, rộng 0,7 đến 0,9 cm. Môi tạo thành cái túi sâu, mặt lưng có một khe rãnh; mặt ngoài nhẵn, dài 5,3 đến 5,8 cm, rộng 1,8 đến 2 cm. Trụ hoa dài 2,1 cm. Miếng nhụy lép gần như vuông, hơi cong lên, mặt trên cũng như cạnh đều có lông, dài 1,1 cm, rộng 1 cm. Đầu nhụy gần như một vòng tròn, mặt lồi và trong suốt. Có hai nắp bao phấn, mỗi mặt của đầu nhụy có một nắp bao phấn.

Phân bố và thói quen sinh trưởng

Paphiopedilum platyphyllum được biết là chỉ tìm thấy một lần từ một địa điểm không được tiết lộ ở Sarawak trên dảo của Borneo. Căn cứ vào cách mô tả, các cây lan này có thể mọc trên sườn núi đá hướng ra phía có thác nước trên độ cao 800 m trên mực nước biển.

Mùa hoa

Cây lan này được cho là sưu tầm được vào tháng Tư. Trong vườn trồng, các cây thuộc loại này ra hoa từ tháng Ba qua tháng Sáu./.

Add a Comment

Your email address will not be published.