Paphiopedilum liemianum

P. liemianum

Phân giống (Sub-genus) Cochiopetalum

100) Paphiopedilum liemianum (Fowlie) Karasawa & Saito

Tên cũ

Paphiopedilum chamberlainianum subsp. liemianum Fowlie

Cùng loài

Paphiopedilum victoria-regina subsp. liemianum (Fowlie) M. W. Wood

Paphiopedilum chamberlainianum var. liemianum (Fowlie) Braem

Dẫn nhập

Paphiopedilum liemianum được Fowlie mô tả lần đầu như một loài phụ của Paph. chamberlainianum. Chúng khác biệt với loài Paph. chamberlainianum về một số đặc tính, từ đó có thể nói chúng xuất phát từ các nơi sinh trưởng khác nhau, và như vậy là không đủ để bảo đảm rằng chúng là một loài riêng biệt. Lá của loài Paph. liemianum có lông mịn từ gốc lên đỉnh. Màu của lá đài sau không được đậm như lá đài sau của Paph. chamberlainianum. Diềm trắng của lá đài sau loài Paph. liemianum có độ rộng đều từ trên xuống dưới và ở tâm có một mảng xanh. Ngược với Paph. chamberlainianum, phần màu đậm của lá đài sau không tràn ra đến diềm màu trắng. Hơn nữa khi xét đến nhiễm sắc thể của Paphiopedilum liemianum cũng rất khác với Paphiopedilum chamberlainianum.

Nguồn gốc tên gọi

Đặt theo tên của Liem Khe Wie (A. Kolopaking) một nhà trồng lan rất nổi tiếng của Indonesia, đã được là người đầu tiên đưa dòng lan này về trồng.

Mô tả

Paphiopedilum liemianum là một loài thảo mộc, mọc nơi có lá mục. Mỗi thân có từ 4 đến 7 lá, là hình trứng đến hình ê-lip thuôn, đầu lá hơi tròn, lá dài 16 đến 26 cm, rộng đến 6 cm. Lá có lông từ chân lên ngọn. Mặt trên của lá có màu xanh và nhiều vân. Mặt dưới của lá đôi khi ta thấy có những vệt hoặc những đốm màu đỏ tía ngả nâu. Vòi hoa hình ống và có nhiều hoa, nhìn chung thì thường mỗi lần không quá hai hoa nở cùng thời điểm. Cuống hoa dài tới 20 cm, màu đỏ tía, có lông bao phủ. Mỗi lóng (đốt) trên cuống hoa dài chừng 3 cm. Lá bắc của hoa hình ê-lip, đầu tù, dài 1,8 cm, màu xanh có đốm màu đỏ tía, lông mịn. Chiều ngang của hoa đo được từ 7 đến 12 cm. Lá đài sau màu trắng hoặc màu kem, vùng tâm màu xanh, hình ô-van, đầu tù, dài 2,6 đến 3,8 cm, rộng 2,4 đến 4,4 cm, có lông mịn, mặt ngoài phủ một lớp lông màu đỏ tía. Chung quanh lá đài sau có một diềm màu trắng, tách bạch hẳn vời màu xanh ở bên trong và diềm màu trắng nay có độ lớn chiều ngang không đổi. Các kẻ sọc ở phần có màu xanh cũng như ở Paph. chamberlainianum song khác nhau ở chỗ các sọc này không có ở phần diềm trắng. Lá đài kép có màu xanh ngả vàng, hình ê-lip, phần đỉnh như bị cắt cụt, chiều dài lá đài kép là 3 cm, rộng 2,3 đến 2,5 cm, và cũng giống như lá đài sau, mặt ngoài của nó lông màu đỏ tía. Các cánh hoa hơi dang theo chiều ngang, đối xứng nhau, có đường kẻ, đầu tù, màu kem với những đốm màu đỏ tía, dài 4 đến 5,5 cm, rộng 0,8 đến 1,5 cm, nửa trên của cánh hoa quăn và có lông tơ. Cánh giữa của hoa có ba thùy, các thùy bên cuộn vào trong tạo thành cái ống. Thùy chính ở giữa làm thành một cái túi sâu phồng lên, ra tới đỉnh thì phẳng. Đo tổng quát, môi dài tới 5 cm, rộng 2,2 đến 3 cm, màu đỏ hồng với những chấm màu đỏ tía đậm, phần mép của túi có màu vàng nhạt. Miếng nhụy lép phồng lên, hình ô-van đến gần như hình chữ nhật, đầu hơi nhọn, dài 10 mm và rộng cũng tương tự. Màu của miếng nhụy lép là xanh phần đầu chuyển dần sang màu hạt dẻ, phần gốc có lông cứng với một mụn xanh nổi lên rõ rệt.

Phân bố và thói quen sinh trưởng

Ở miền bắc Sumatra. Các cây lan này mọc trên các hốc chứa mùn, các mùn đó thường được lấp đầy ở phần rễ cây rừng. Chúng thích nghi với vùng đá vôi trên độ cao 600 đến 1.000 m. Cây mẫu được thu thập ở vùng Gunung Sinabung.

Mùa hoa

Paphiopedilum liemianum ra hoa quanh năm. Chúng nở lần lượt hoa nọ kế tiếp hoa kia trong một thời gian dài. Thông thường ít thấy có trên hai hoa nở cùng lúc./.

Add a Comment

Your email address will not be published.