Paphiopedilum primulinum

P. primulinum fma

Phân giống (Sub-genus) Cochiopetalum

101) Paphiopedilum primulinum M. W. Wood & Taylor

Cùng loài

Paphiopedilum chamberlainianum subsp. liemianum forma primulinum Fowlie

Paphiopedilum victoria-gegina subsp. primulinum (M. W. Wood & P. Taylor) M. W. Wood

Paphiopedilum liemianum var. primulinum (M. W. Wood & P. Taylor) Karasawa & Saito

Paphiopedilum chamberlainianum var. primulinum (M. W. Wood & P. Taylor Braem

Dẫn nhập

Paphiopedilum primulinum được Mark W. Wood và Peter Taylor mô tả dựa trên một cây mà Mark Wood mua về từ một người trồng là ở Java thuộc Indonesia tên là Liem Khe Wie, người này cho biết đã có bài đăng trong tạp chí The Orchid Review vào năm 1973. Hơn thế nữa, Liem Khe Wie đã nhận được cây lan này từ những nhà sưu tập địa phương ở Sumatra, họ đã mang những cây này đến vườn ươm của ông ấy ở Java. Đặc điểm nổi bật nhất trong cách đánh giá về nguồn gốc dòng này của Fowlie đã được chuyển xuống thành hình thái một loài – Paph. chamberlainianum là loài phụ của Paph. liemianum, một cách nhìn tiếp theo của Mark Wood, như ông viết vào năm 1976, đã đưa hầu hết các dòng thuộc giống phụ dưới hình thái của loài “Paph. victoria-regina

Karasawa & Saito đã đúng khi nói rằng Pap. primulinum có cùng số nhiễm sắc thể với Pap. liemianum (2n = 32). Hơn nữa, điều ông ta còn thắc mắc là Paph. primulinum cũng giống như Paph. liemianum là diềm của cả hai đều có lông tơ giống nhau, nhưng điều đó lại không đúng.

Về hình thái học, thì Paph. primulinum khác hoàn toàn với tất cả các loài trong phân giống Cochlopetalum. Thông thường chúng không có khảm, lá không gợn sóng, và hoa có màu xanh và màu vàng xỉn, những bông của loài đó lại nhỏ hơn bất cứ loài nào trong cùng một nhóm. Lá của những cây non có thể có những đốm.

Vì thế có đề nghị rằng Paph. primulinum “điển hình” với những bông hoa của nó có màu vàng và xanh không có vết là một cây thuộc albino thì bây giờ nên coi chúng là Paph. primulinum var. purpurascens (M. W. Wood) Cribb. Đương nhiên, những đặc tính của Paph. primulinum phù hợp với một giả thuyết đã có.

Nguồn gốc tên gọi

Đặt tên primulinum căn cứ vào màu của hoa giống màu hoa anh thảo (primrose).

Mùa hoa

Paphiopedilum primulinum ra hoa quanh năm. Hoa nở lần lượt từng bông chứ không nở liền tất cả một lúc, cho nên thời gian hoa nở khá dài. Thông thường ít khi có hai hoa nở cùng một lúc.

Biến loài và biến thể

Paphiopedilum primulinum forma purpurascens (M. W. Wood) Peters & Braem.

Tên cũ

Paphiopedilum victoria-regina subsp. primulinum forma purpurascens M. W. Wood

Cùng loài

Paphiopedilum chamberlainianum subsp. liemianum forma primulinum var. flavescens Fowlie.

Paphiopedilum primulinum var. purpurascens (M. W. Wood) Cribb

Paphiopedilum liltii hort., nomen nudum

Dẫn nhập và mô tả

Forma purpurascens rất có thể là hình thái bình thường (normal) của Paph. primulinum và cây lan với những hoa có màu xanh vàng, đó có thể là đại diện cho thể albino. Cây forma purpurascens khác với những cây biến đổi bình thường có lá ngắn hơn với màu xanh đậm hơn đồng thời có những đốm màu đỏ tía ở phần gốc phía mặt dưới của lá và ở môi hoa của cây lan ánh lên màu đỏ tía, ở các cánh hoa của nó có những chấm cùng màu như vậy, mặt ngoài của hoa có lông cũng màu đó.

Nguồn gốc tên gọi

Tên purpurascens đặt theo màu sắc của hoa.

Phân bố và thói quen sinh trưởng.

Ở miền bắc Sumatra. Trên mực nước biển chừng 500 m, mọc thành những cụm nhỏ, rễ của chúng nằm dưới lớp lá mục trên các khe đá vôi. Liem Khe Wie giải thích rằng đã tìm thấy chúng ở Gunung Leuser, mọc cùng với các hình thể định danh khác.Người ta cũng cho biết chúng mọc ở nơi khác nữa cùng với Paph. tonsum./.

P. primulinum

Add a Comment

Your email address will not be published.