CÁC GIỐNG LAN TRÊN THẾ GIỚI (Tiếp theo)
Myrmecophila
Tông: Epidendreae Tông phụ: Laeliinae
Phân bố: Có 10 loài từ Mexico tới Venezuela và vùng Caribbean Loài lan biểu sinh hoặc địa lan có cây lớn. Giả hành hình côn hoặc hình trụ, trên đỉnh có 1-5 lá, thân rỗng, thường được lũ kiến trú ngụ, chúng thường chui qua những cái lỗ gần gốc của giả hành. Phiến lá dầy hoặc dai, thường có hình ê-lip. Vòi hoa ngắn, cuống hoa dài, không phân nhánh hoặc có phân nhánh tùy theo loài, vòi hoa đứng thẳng, uốn cong hoặc nằm ngang, có nhiều hoa, có một số hoa nở vào cùng thời điểm. Hoa có màu sắc nổi bật. Các lá đài và cánh hoa thường có mép gợn sóng, cánh hoa hẹp các lá đài. Môi liền hoặc có ba thùy. Khối phấn 8, chia làm 2 nhóm, mỗi nhóm 4.
CÁCH TRỒNG
Đây là loài có thân lớn, nếu trồng trong nhà kính, chúng sẽ chiếm nhiều không gian, vì vậy nên trồng chúng ngoài trời, ở các vườn thuộc vùng nhiệt đới hoặc cận nhiệt đới. Trồng chúng trong chậu hoặc trong giỏ với các chất trồng thô, thành phần chính là vỏ cây, cần thoát nước tốt, trong môi trường nhiệt độ ấm, ánh sáng tốt, tưới nước nhiều trong thời kỳ cây đang phát triển. Khi cây vào kỳ nghỉ thì gần như để khô hoàn toàn. Chúng sẽ phát triển tốt nếu không có sự “xâm lược” của lũ kiến.
Myrmecophila tibicinis
Cùng loài: Laelia tibicinis (Bateman ex Lindley) L. O. Williams; Và loài Schomburgkia tibicinis (Bateman ex Lindley) Bateman.
Giả hành cao 55 cm, to 4 cm, hình trụ, có khía. Có 3-4 lá dài 25 cm, rộng 6 cm, hình thuôn Vòi hoa cao tới 2,5 m hoặc hơn, thường có phân nhánh. Các hoa mọc ở gần đầu mút vòi hoa, hoa to 8 cm, màu hạt dẻ hoặc màu đỏ tía. Các thùybên của môi cuộn lại quanh trụ hoa, thùy giữa không có móng, hình cái quạt, mép xẻ khe. Lan biểu sinh hoặc địa lan, trên cây hoặc trong các rừng cây bụi vùng đất thấp, khô cằn và ẩm ướt, trên độ cao 0-600 m, Ở Mexico, Nam Mỹ.
Loài tương tự: Myrmecophila brysiana (Lemaire) G. C. Kennedy (Cùng loài Schombergkia brysiana Lemaire) ở Trung Mỹ và Tây Indies, có vòi hoa ngắn hơn, các hoa màu vàng ánh lên màu nâu cam. Thùy giữa của môi có móng và có những đốm màu đỏ tía.
Mystacidium
Tông: Vandeae Tông phụ: Aerangidinae
Phân bố: Có 10 loài ở miền đông vùng nhiệt đới châu Phi và Nam Phi Loài lan biểu sinh đơn thân, có thân ngắn và nhỏ, có khá nhiều rễ cứng, thường có màu xanh xám với những sọc trắng. Lá mọc đối xứng, thường có hình đai, đôi khi lá bị rụng. Vòi hoa mọc từ nách lá, có vài hoa đến nhiều hoa. Hoa màu trắng hoặc màu xanh vàng trong suốt hoặc xanh ngả trắng. Các lá đài và cánh hoa tương tự nhau, hình mác, nhọn, thường nằm ngang. Môi liền hoặc có ba thùy gần phần chân môi, có cựa, cựa thon từ miệng đến đầu chót.
CÁCH TRỒNG
Các loài thuộc giống Mystacidium trồng bằng cách ghép vào mảnh gỗ hoặc những cành cây nhỏ là tốt nhất, vì nếu trồng trong chậu, rễ sẽ bị hư. Các loài nhỏ với màu hoa ngả xanh, như Mystadcidium tanganyikense, cần thật nhiều bóng râm, độ ẩm cao suốt quanh năm, trong khi đó những loài có hoa màu trắng lớn hơn lại yêu cầu nhiều sáng hơn và sau khi ra hoa cần để cho cây khô hơn, đặc biệt là nếu lá bị rụng. Tất cả hai loài này đều thích hợp với nhiệt độ trung bình.
Mystacidium braybonae
Lá dài 6 cm, rộng 1 cm, màu xanh đậm. Vòi hoa không chỉ có một, buông rủ, dài 5 cm, có 5-10 hoa, hoa trắng, to 2 cm, có hình khá giống cái chuông. Môi có ba thùy, thùy giữa hình tam giác, có cựa dài 25 mm. Lan biểu sinh, trong rừng, ở Nam Phi ( trên dẫy núi Zoutspansberg)
Mystacidium capense
Có 4-10 lá, lá hình đai, dài 12 cm, rộng 2 cm, màu xanh đậm. Vòi hoa không chỉ có 1. vòi hoa cong hoặc buông rủ, có 15 hoa, hoa mọc thành 2 hàng, màu trắng, giống như các ngôi sao, to 2-3 cm. Môi có ba thùy, cựa dài 4-6 cm. Ra hoa vào mùa xuân-hè. Lan biểu sinh, trong các khu rừng trên núi và rừng ở các vùng đất thấp, trong rừng bụi gai thường là nơi khô nóng, ở Nam Phi, Swaziland
Loài tương tự: Mystacidium venosum Harvey ex Rolfe, thường nhỏ hơn một chút và ra hoa vào mùa đông ở nơi hoang dã, đôi khi ra hoa một khi lá đã rụng./.
Hình trong bài: Loài lan
Ngày 07/12/2024