TẢN MẠN CUỐI TUẦN.

ohnson & Thieu

TẢN MẠN CUỐI TUẦN.

“ĂN CƠM MỚI NÓI CHUYỆN CŨ”.

Lời nói đầu.

Trong hai cuộc chiến tranh chống Pháp và Mỹ xâm lược, khi tôi còn ở miền bắc, không có nhiều thông tin, nhất là thông tin từ bên kia chiến tuyến như ngày nay. Vì vậy, khi báo chí cách mạng nói rằng, chính quyền do Pháp và Mỹ dựng lên đều là những chính phủ bù nhìn, bản thân tôi nghe vậy, biết vậy và tin vậy.

Rồi khi nước nhà được thống nhất, tôi cố tìm đọc những cuốn sách mà người “phía bên kia” viết như các cuốn Hồi ký, các bài trả lời phỏng vấn của ông Đỗ Mậu, ông Nguyễn Cao Kỳ… thì hóa ra báo chí thời đó nói thật. Sau khi nghe mấy bài viết của nhà trí thức Việt kiều có tên Thiếu Long, người đang sống ở Hoa Kỳ dưới tiêu đề “NÓI HỚ”, mới thôi thúc tôi viết lại để những người như tôi cùng chia sẻ.

SỰ KHINH THƯỜNG CỦA CÁC TỔNG THỐNG MỸ ĐỐI VỚI CÁC TỔNG THỐNG VNCVH  (đầu đề nhỏ là của tôi)

 

Rất nhiều lãnh đạo Hoa kỳ, trong đó có cả tổng thống đã chủ động thừa nhận trong đó vô tình hoặc lỡ lời nói lên mối quan hệ của Mỹ với Việt Nam cộng hòa (VNCH), và thực tế ai là chủ trong mối quan hệ Mỹ – VNCH? Nixon hù dọa cắt đầu Thiệu nếu cần. Cố vấn Mỹ cười cợt đòi bắn bỏ Thiệu, Nixon ví ngụy quyền như cái đuôi của mình vân vân. Ngoài giới chính trị, quân sự Hoa kỳ thừa nhận bản chất tay sai của ngụy quyền Sài gòn thì những người dân thường Mỹ cũng coi chính quyền SG chỉ là những chỉ là bù nhìn của chỉnh phủ họ. Điều này thể trên các băng rôn trong các cuộc biểu tình chống chiến tranh trên đất Mỹ và nhiều nơi trên thế giới. Rất nhiều chóp bu ngụy trong đó có các thủ tướng, phó thủ tướng, tướng tá sĩ quan ngụy đã chủ động thừa nhận hoặc lỡ lời thừa nhận bản chất bù nhìn của chính phủ mình, quân đội mình, trong đó có những người sau này không còn chống đối nữa như Nguyễn Cao Kỳ, Dương Văn Minh, Nguyễn Hữu Hạnh, Đỗ Mậu, Trần Trung Ngọc vv. Và cả những người chống đối cả đời, vẫn hoặc đang chống đối như Ngô Đình Diệm, Nguyễn văn Thiệu, Trần văn Đôn, Đặng văn Nhâm, Trần Viết Đại Hưng, Cao Văn Viên v.v. Trong giai đoạn đấu tranh giằng co với Việt Nam tại hội nghị Paris khi Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu xin cho mình khỏi phải ký tên vào Hiệp định Paris năm 1973 vì ông ta bảo rằng đây là Hiệp định bán đứng VNCH cho Cộng sản thì có một lần Nixon nói với Kisinger : ”không thể có cái đuôi con chó lại phản lại cái đầu con chó được” và sau đó Thiệu vẫn phải nhịn nhục ký vào bản Hiệp định và ông ta thừa biết nếu ông ta không ký thì ông ta vẫn bị gạt ra và Hiệp định vẫn có thể thực thi thậm chí ông ta có thể gây ra một cái gì đó vi gương Ngô Đình Diệm sờ sờ trước mắt. Theo tiến sĩ kinh tế Nguyễn Tiến Hưng, cựu tổng trưởng kế hoạch và phát triển của chế độ SG, giáo sư đại học Havard tại Mỹ, trong cuốn “Hồ sơ mật của dinh ĐL” xuất bản năm 1986 thì trong thời điểm đó, Mỹ đã nhiều lần gởi thơ yêu cầu bắt buộc và đe dọa, thậm chí đe dọa tính mạng, Thiệu phải ký vào Hiệp định. Theo sách “Vietnam a History” của nhà sử học Stanley Connor do nhà xuất bản Eden…Press, xuất bản năm 1983 khi phóng viên hỏi Tổng thống Mỹ L. Johnson là tại sao lại chọn Diệm mà không phải là một nhân chứng khác thì L Johnson trả lời “Diệm là thằng con trai duy nhất mà chúng ta có ở đó” (Diem is a omly boy we were get out there) lưu ý ông Diệm lúc này là người trung niên đã lớn tuổi, tuy đôi lúc đó chỉ là các Tổng thống Mỹ họ nhỡ lời, nhưng họ không hề coi trọng và không coi ngụy quyền Sài gòn ra gì.

KHÔNG CÓ NỘI CHIẾN, CHỈ LÀ CHIẾN TRANH XÂM LƯỢC CỦA MỸ

Cựu bộ trưởng quốc phòng Hoa kỳ, cựu chuyên gia phân tích của Lầu Năm góc, tiến sĩ Daniel trong cuốn sách của NXB Viking 2002 đã cho biết, “không làm gì có cuộc chiến Đông dương thứ nhất và thứ nhì mà chỉ có một cuộc chiến tranh nối tiếp từ một phần tư thế kỷ, dùng ngôn từ thực tế, đứng về một phía nước Mỹ, ngay từ đầu nó đã là một cuộc chiến của người Mỹ mới đầu là xác Mỹ (1945 -1954), sau đó toàn là Mỹ (1954- 1975), trong cả hai trường hợp, nó là cuộc đầu tranh của người VN , không phải của tất cả người VN nhưng cũng đủ để duy trì một cuộc đấu tranh chống chính sách của Mỹ và những kinh viện ủy nhiệm, kỹ thuật gia, hỏa lực và cuối cùng là quân đội và phi công của Mỹ. Cuộc chiến đó không có gì là nội chiến. Sau 1956 hay từ khi 1960 nó đã không từng là nội chiến, từ cuộc chiến tranh tái chiếm thuộc địa của Pháp được Mỹ ủng hộ, một cuộc chiến mà trong đó một phía được trang bị hoàn toàn và được trả lương bởi một quyền lực ngoại quốc , một quyền lực được toàn quyền quyết định về bản chất của chế độ địa phương, vì những quyền lực của mình thì không phải là một cuộc nội chiến”.

 

Tiến sĩ Daniel Elbert biết những điều đó là vì ông là quan chức trong chính phủ Mỹ đã từng đảm nhiệm tài liệu mật của Mỹ và biết rõ thực chất cuộc chiến tại Mỹ, chính ông là người đã tiết lộ tài liệu “Lầu năm góc” và ông viết đoạn trên năm 2002 chứ không phải trong thời kỳ chống triến tranh xâm lược sôi nổi trên đất Mỹ. Nếu chúng ta đã đọc một số những sách viết về chiến tranh Việt Nam, viết sau năm 1975 của các học giả và cựu quân nhân Mỹ thì chúng ta sẽ thấy rằng đa số đồng ý với Daniel Elbert về điểm này.

Tướng Đỗ Mậu, từng là Phó thủ tướng đã viết về Ngô Đình Diệm và Nguyễn Văn Thiệu trong phần lời mở đầu của Hồi ký “Việt Nam máu lửa quê hương tôi” do NXB Hương Quê, xuất bản năm 1986 tại Mỹ và sau này NXB Văn nghệ tái bản lại cũng ở Mỹ, như sau:

“Người thì muốn nối dài biên giới Hoa kỳ từ Alaska tới sông Bến Hải, người thì đào nhiệm bỏ ngũ khi Hoa kỳ ngưng viện trợ chống Cộng”.

Sử gia Jack Dalas cũng ghi nhận trong cuốn “Chiến tranh Đông dương 1945-1954” câu nói của Diệm: “biên giới của Mỹ không ngừng ở Đại tây dương và Thái bình dương mà kéo dài ở Đông nam Á tới sông Bên hải ở vỹ tuyến 17 của VN, hình thành một biên giới của thế giới tự do cái mà chúng ta đều trân quý”.  Ông Diệm đã lỡ lời nói hớ rằng biên giới Hoa kỳ kéo dài tới sông Bến Hải trên vĩ tuyến 17, sau đó báo chí Sài gòn kiểm duyệt, cắt xén và biên tập lại thành  biên giới tự do kéo dài đến sông Bến hải cho đỡ bộc lộ bản chất tay sai, sau đó Diệm cũng nói chữa lại bằng một câu khác, nhấn mạnh biên giới tự do thay thế cho biên giới Hoa kỳ. Cuốn “VN cuộc chiến mười nghìn ngày”, NXB ở London lần đầu xuất bản cũng ghi nhận một số câu nói của Nguyễn Văn Thiệu “nếu Hoa kỳ mà không viện trợ cho chúng ta nữa thì không phải là một ngày, một tháng hay một năm mà chỉ sau 3 giờ chúng ta sẽ rời khỏi dinh ĐL” hay “Mỹ còn viện trợ thì chúng ta còn chống Cộng”.

“CHÚNG TÔI CHỈ LÀ NHỮNG CON RỐI, LÀ BÙ NHÌN CỦA MỸ”

Trong bộ phim tài liệu “VN cuộc chiến mười nghìn ngày” tập đoàn truyền thông Canada CBC sản xuất, đạo diễn danh tiếng Micheal Morlieu thực hiện vào năm 1980, phát lại một số video phỏng vấn cũ trong thời chiến đã cho thấy Thiệu, Kỳ trả lời phỏng vấn, tự thú nhận rằng mình là bù nhìn, nghị gật, con rối của Mỹ, chính ông Thiệu cũng thừa nhận mình là con rối. Những tài liệu video clip này được nhóm làm phim “Cuộc chiến mười nghìn ngày” của Canada mua lại và phát lên trong phim tài liệu của họ trong đó cho thấy khi trả lời phỏng vấn bằng tiếng Anh, Nguyễn văn Thiệu đã nói “tôi là kẻ ba phải, nếu không phải là một con rối” (I’m not as man so as a pupit), ông Nguyễn Cao Kỳ thì nói “Việt Cộng đối xử với chúng tôi như những con rối Mỹ, con bù nhìn của người Mỹ, nhưng rồi người Mỹ cũng coi chúng tôi là những con bù nhìn của Mỹ, chứ không phải là các nhà lãnh đạo thực sự của người dân Việt nam”. Ngoải ra khi trả lời phỏng vấn báo Thanh niên số xuân Ất Dậu năm 2005 ông Nguyễn Cao Kỳ cũng đã thẳng thắn thừa nhận “Ông Mỹ lúc nào cũng đứng ra làm kép chính, chúng tôi không có quyền lực và vai trò gì quan trọng vì vậy nhiều người cho đây là cuộc chiến tranh của người Mỹ và chúng tôi chỉ là những kẻ đánh thuê”.

Trong phim tài liệu “Vietnam a television history” do đài BBS, NBS và ABC hợp tác sản xuất có đoạn phóng viên phỏng vấn Nguyễn Cao Kỳ, ông Kỳ kể lại sau khi ông ra lệnh đàn áp cuộc đấu tranh của Phật giáo và muốn hạ bệ tướng Nguyễn Chánh Thi trong một cuộc chiến quyền lưc vào đầu năm 1965, sau đó ông và các tướng Nguyễn Văn Thiệu, Nguyễn Khánh, Nguyễn Chánh Thi bị đại sứ Mỹ triệu tập vào và đập bàn ghế chửi mắng thậm tệ, tướng Kỳ thật thà thú nhận rằng “từ nhỏ tới lớn ông chưa bao giờ bị chửi mắng thậm tệ như thế, ngay cả cha ruột của ông cũng chưa bao giờ chửi mắng ông ta nặng và lâu đến như vậy”. Sau đó Nguyễn Khánh bị Mỹ lưu đầy và năm 1966 Nguễn Chánh Thi cũng chịu chung số phận . Theo quan hệ thông thường giữa các quốc gia, chỉ có chính quyền sở tại triệu đại sứ đến nói chuyện, đằng này ngược lại mà còn bị chửi mắng xúc phạm xỉ nhục. Đây là một trong những điều cho thấy bản chất thật của chế độ Sài gòn và quân đội Sài gòn là gì. Ngoài ra, phim tài liệu “Head and Mean” của đạo diễn Peter David do đài BBC Anh quốc sản xuất năm 1974 và đoạt giải OSCAR cho him tài liệu hay nhất năm 1975 cũng cho thấy cảnh Nguyễn Khánh cho biết nhà ngoại giao, đại sứ Taylor của Mỹ đã đích thân ra lệnh cho ông phải rời khỏi nước Việt Nam, thậm chí Nguyễn Khánh còn lén ghi âm lại lệnh lưu đầy của Taylor .

TRUNG QUỐC MUỐN NHẨY VÀO CHIẾM VN THAY CHÂN MỸ

Theo các tướng tá cũ của Sài gòn như Nguyễn Hữu Hạnh, Nguyễn Chánh Thi và cựu dân biểu Lý Quí Chung thì sáng ngày 30/4/1975 tướng tình báo Pháp Franco Vanuxem đã tới gặp tổng trưởng Dương Văn Minh và đề nghị ông kêu gọi Trung quốc can thiệp để cứu ngụy quyền Sài gòn trong cơn nguy kịch. Tướng Minh vốn đã được ban binh vận Trung ương cục miền nam, thông qua em trai là Dương Thanh Nhật, bí danh Mười Ty, đại tá quân đội Nhân dân VN và gia đình thuyết phục từ trước đã khước từ và nói “tôi cám ơn thiện chí của ông, nhưng trong đời tôi, tôi đã từng làm tay sai cho Pháp, rồi tay sai cho Mỹ, đã quá đủ rôi, tôi không thể tiếp tục làm tay sai cho Trung quốc”.

NHỮNG BÊ BỐI TRONG NGỤY QUYỀN SÀI GÒN

 Tướng Cao Văn Viên là một trong năm đại tướng trong quân đội SG, ông giữ chức tổng tham mưu trưởng quân đội ngụy lâu nhất, từ năm 1965 đến năm 1975, trong chiến dịch Hồ Chí Minh Cao Văn Viên chạy theo người Mỹ, sống luôn bên Mỹ, qua đời ở tiểu bang Virginia vào năm 2008, trong hồi ký để lại, ông viết “chúng ta không có trách nhiệm về chiến tranh, trách nhiệm về cuộc chiến ở đây là của người Mỹ, chính sách đó do họ đề ra chúng ta chỉ theo họ mà thôi”.

Chuẩn tướng Nguyễn Hữu Hạnh, cựu phụ tá Tổng tham mưu trưởng quân đội Sài gòn là một trong số 16 nhân vật lãnh đạo chức lớn nhất trong chế độ ngụy Sài gòn còn ở lại khi Sài gòn được giải phóng tháng 4 năm 1975 đã trả lời phóng viên đài BBC Việt ngữ vào năm 2010: “Pháp đã ở VN 100 năm, Pháp ra đi sau Hiệp định Geneve thì Mỹ lại nhảy vô, tôi nói thật trong tất cả các đời tổng thống VNCH ai mà Mỹ không ưa thì người ấy bị hất đổ ngay. Ở miền nam này đã xảy ra không biết bao nhiêu cuộc đảo chính, mười mấy lần chư có ít đâu, tụi tôi học trong quân đội, học ở Mỹ, học tiếng Mỹ, đi thăm Mỹ, đủ hết, rồi tụi tôi cũng có nhiều người bạn Mỹ rất tốt bụng nhưng với Mỹ thì tôi vẫn không có bằng long, thậm chí đi lần thăm đại bản doanh Cục tình báo CIA bên đó, thấy sợ hơn là thấy thích, người Mỹ họ có đường lối của họ, đó là họ phải nắm chỉ huy ở miền nam này, họ chỉ huy trong mọi lĩnh vực, từ chính trị, kinh tế tới ngoại giao, Mỹ nắm hết, rồi chính Mỹ đã bỏ miền nam VN”.

Trong bài tham luận “Một bí ẩn cần tiết lộ” trong truyện “bức tường miền nam năm 1075” của tác giả Trần Viết Đại Hưng, một sĩ quan ngụy, bạn thân của tướng ngụy Nguyễn Chánh Thi và hiện đang hoạt động chống Cộng sản ở Lowndly, Mỹ nói: “trong thời gian chiến tranh VN, báo chí Mỹ phanh phui là Thiệu cùng với đàn em là trung tướng Đăng Văn Quang đã buôn bán bạch phiến làm giầu, trùm ma túy như Thiệu thì làm gì có chuyện yêu nước thương dân, gặp thời loạn lạc làm cai thầu chống Cộng, Thiệu chỉ có một việc duy nhất là vơ vét cho đầy túi tham mà thôi, đến khi quốc gia hưng vong thì lòi ngay ra cái bản chất ty tiện hèn nhát, đúng là có cháy nhà mới lòi mặt chuột Nguyễn Văn Thiệu”.

Phó Tổng thống Nguyễn Cao Kỳ cũng chẳng có gì khá hơn trong cuốn Hồi ký “Việt Nam máu lửa quê hương tôi” cựu thiếu tướng Đỗ Mậu đã chỉ ra rằng ông Kỳ và bà chị ruột là Nguyễn thị Lý đã buôn lậu thuốc phiện từ Lào về bán. Đúng là hai gương mặt cai thầu chống Cộng do Mỹ dựng lên là Nguyễn Văn Thiệu và Nguyễn Cao Kỳ chẳng có tay nào sáng sủa, toàn là thứ buôn lậu ma túy. Phải đợi tới những ngày cuối tháng Tư 1975 mới thấy rõ tư cách hèn kém của hai tay này bỏ quân leo phi cơ mà chạy, không chút liểm sỉ và danh dự của người lãnh đạo. Thiệu và Kỳ cón bám víu quyền lực nếu ngày nào còn viện trợ của Mỹ mà thôi.

Công tâm mà nói, đúng ra vào những ngày cuối tháng Tư năm 1975 Cao Kỳ tính làm một cuộc đảo chính chính phủ Dương Văn Minh mới thành lập để đối đầu với bắc quân, dĩ nhiên là người Mỹ biết chuyện đó và trùm CIA ở SG lúc đó là ông Polgar đã cảnh cáo ông Kỳ là không được lộn xộn, Kỳ nghe như thế thì diu díu vâng lời vì đã nhiều năm làm việc với Mỹ, Kỳ hiểu rằng nếu cứng đầu bướng bỉnh, cãi lại Mỹ thì chỉ có mang họa vào thân. Trước đây khi ép buộc tổng thống Thiệu ký Hiệp định Paris về VN vào tháng 1 năm 1973, tổng thống Nixon đã gởi nhiều bức thư cho Thiệu, cảnh cáo Thiệu là nên nghe lời Mỹ mà ký chứ nếu không thì sẽ phải chịu số phận thê thảm của tổng thống Diệm. Những lời hù dọa này đã có kết quả, Nguyễn Văn Thiệu đồng ý ký vào Hiệp định Paris về VN dù bản thân Thiệu cũng biết đây là Hiệp định bán đứng miền nam cho Cộng sản (xin đọc kỹ cuốn HỒ SƠ MẬT DINH ĐỘC LẬP của tiến sĩ Nguyễn Tiến Hưng để coi lại những bức thư mà Mỹ viết cho Thiệu nhằm thuyết phục và hăm dọa Thiệu ký).

“VNCH chiến đầu chống Cộng sản trong suốt hai mươi mốt năm (1954-1975), miền nam được sự bảo trợ kinh tế, quân sự của Mỹ, tiếc rằng Mỹ không đóng vai trò một đồng minh tin cậy, nhiệt thành mà Mỹ hiện thân là một ông chủ thô bạo, tiền hậu bất nhất để rồi đưa đến thảm kịch 30/4. Mỹ thất bại với Việt cộng là vì đánh giá quá thấp khả năng chiến đầu của Việt cộng đã không làm tròn vai trò đồng minh với VNCH. Mà chỉ độc đoán điều hành, sắp đặt mọi việc, người lính Mỹ mắt xanh mũi lõ có mặt trên đất nước VN cũng không khác gì hình ảnh của binh lính Pháp viễn chinh ngày xưa, thêm vào đó Mỹ không muốn tìm một người lãnh đạo quốc gia có tư cách để chống Cộng, vì những người này đôi khi xung khắc với đường lối của Mỹ cho nên Mỹ chỉ muốn tìm tay sai để sai bảo, và những tên tay sai thì thường mất tư cách tham nhũng làm suy yếu khả năng chống Cộng. Viện trợ của Mỹ trước đây đổ vô miền nam như đổ vô cái thùng không đáy vì tệ nạn tham nhũng, mà đứng đầu vua tham nhũng Nguyễn Văn Thiệu” (hết trích).

Trong số những bài viết về lịch sử VN như bài “30/4 – nhìn lại cuộc chiến ở VN”, tôi đọc bài của Phạm Cao Dương về đại tướng Võ Nguyên Giáp, vài nét về cụ Hồ vân vân, giáo sư tiến sĩ Trần Trung Ngọc, sĩ quan quân đội Sài gòn, cựu giảng viên trường sĩ quan quân đội Nam định hiện đang sống ở Ilynois Hoa kỳ, đã viết “nhìn cuộc chiến ở Việt nam, đơn giản chỉ là cuộc chiến giữa tự do dân chủ của người Việt quốc gia đối với lý tưởng độc tài khát máu của người Việt cộng sản là không hiểu gì về cuộc chiến cả, do đó kéo dài hận thù đối với Cộng sản là một hành động vô tri, bắt nguồn từ cái nhìn rất thiển cận của mình về cuộc chiến. Hiện nay chúng ta có rất nhiều tài liệu về cuộc chiến tranh Việt Nam vừa qua, gồm cuộc chiến chống Pháp và cuộc chiến chống Mỹ nhiều đến độ có lẽ chúng ta không bao giờ biết hết và đọc hết. Người Việt quốc gia thường cho là nam Việt Nam là đồng minh trước hết là của Pháp rồi sau là của Mỹ để chống Cộng cho họ, nhưng sự thật khá đau lòng, trong cả hai cuộc chiến, nam VN chỉ là tay sai, con cờ của Pháp và Mỹ, Pháp chưa bao giờ coi thành phần quốc gia là đồng minh của họ, Mỹ còn tệ hơn nữa, vì là ông chủ chi tiền. Đối với một thiểu số người Việt lưu vong thì 30/4/1975 là ngày mà họ gọi là “ngày mất nước”, làm như miền nam là của riêng họ, tuy rằng nước vẫn còn đó và ngày càng phát triển, ngày nay đã vượt trội hẳn cái “nước” của họ ngày xưa, khi mà thực ra cái “nước” ấy chỉ nằm trong sự chi phối của cái đồng đô la và sự chỉ đạo của các quan toàn quyền như Noting, Lodge, Martin. Không phải là sau Hiệp định Geneve về Đông dương Mỹ mới can thiệp vào VN mà Mỹ đã can thiệp vào VN đã lâu, Mỹ đã đồng lõa với thực dân Pháp tái lập nền đô hộ của Pháp trên dân Việt Nam, những người thực sự tin rằng Mỹ là đồng minh của miền nam VN muốn giúp dân VN chống Cộng sản, để cho dân Việt Nam hay ít ra để cho dân miền nam được tự do dân chủ, (thì) nên nhớ kỹ rằng chính Mỹ đã đài thọ hơn 80% chiến phí cho Pháp trong cuộc chiến cho đến Hiệp định Geneve (từ năm 1945 đến năm 1954) để Pháp tái lập nền đô hộ của Pháp ở VN đưa VN trở lại vòng nô lệ của Pháp, trong khi Mỹ biết rất rõ chế độ thực dân Pháp đối với dân VN là như thế nào. Lịch sử VN sẽ lên án hành động đế quốc thực dân này, nếu chúng ta coi Pháp là quân xâm lăng thì Mỹ cũng là quân xâm lăng không kém. Chỉ sau khi Pháp thất trận Mỹ mới đưa ra chiêu bài giúp VN bảo vệ nền tự do của nam VN trong khi như chúng ta biết, theo Hiệp định Geneve về Đông Dương, nam VN không phải là một quốc gia độc lập mà chỉ là một vùng rút quân của Pháp và những lực lượng quân sự dưới quyền Pháp trong đó có lực lượng quốc gia, ngày tổng tuyển cử toàn quốc vào năm 1956. Ngày 30/4/1975 không chỉ có nghĩa là ngày đất nước thống nhất, chủ quyền trở về tay người VN mà còn là ngày người dân VN, trừ những kẻ có tâm cảm phi dân tộc hay tiếp tục nuôi dưỡng thù hận, thì bất kể người có chính kiến hay phe phái nào đều có thể hãnh diện, ngẩng đầu, nhìn thẳng vào mắt kẻ đối thoại, bất kể họ thuộc lớp người nào, ở địa phương, thuộc quốc gia nào. Tôi thua trận nhưng ngày chiến thắng Điện Biên Phủ cũng như ngày 30/4/1975 đều mang đến cho tôi niềm hãnh diện là một người VN, một người VN không quốc gia, không Cộng sản, không nam không bắc, một người VN không từ bỏ gốc gác tổ tiên, không từ bỏ lịch sử khi vinh khi nhục của quốc gia và lẽ dĩ nhiên rất hãnh diện với lịch sử chống xâm lăng của dân tộc. Khía cạnh tích cực nhất của ngày 30/4 năm 1975 là trên đất nước không còn cảnh bom đạn, cảnh đồng bào bắn giết nhau, và nhất là đất nước đã vắng bóng quân xâm lược” (hết dịch).

Trong bài viết gởi nhà Huế học Nguyễn Đắc Xuân trên trang Đàn Chim Việt Đặng Văn Âu, một tên tay sai đắc lực nhất, một con chó săn trung thành nhất của chủ Mỹ đi trước năm 1975, đã viết: “cần phải vận động Hoa kỳ cho VN trở thành một tiểu bang của nước Mỹ, chỉ có cách ấy nhân dân ta mới chống nổi tham vọng bành trướng của người Đại Hán, trong bài tuyên truyền “thằng Mỹ đô hộ coi bộ khỏe hơn” đăng trên VN dân luận, Nguyễn Ngọc Già, cựu anh hùng mũ đỏ của ngụy quân đã úp mở viết câu kết luận ngay cuối bài “thôi thì cho thằng Mỹ nó đô hộ còn coi bộ khỏe hơn” và đó là những quan điểm khác nhau của nhiều tầng lớp khác nhau trong quân đội Hoa kỳ và ngụy quyền, ngụy quân Sài gòn dù gián tiếp hay trực tiếp dù thật thà thừa nhận hay lỡ miệng, dù thiện hay ác, dù quan điểm phá hoại hay quan điểm xây dựng vân vân cũng đều nói lên bản chất của ngụy quyền và ngụy quân Sài gòn không gì rõ ràng hơn là chính họ nói về họ, chính họ nói về nhau, quân nhân Mỹ nói về bản thân họ và nói về đồng minh của họ, quân nhân ngụy nói về bản thân họ và nói về đồng minh của họ và họ đã nói điều đó cả trong cuộc chiến và sau cuộc chiến./.

Ph. T. Kh. Ghi

Tháng Ba 2017

Nixon_Mao_1972

Hình trên: Mao Trạch Đông và Nixon bắt tay tính toán trên lưng dân tộc Việt Nam năm 1972

Add a Comment

Your email address will not be published.