CÁC GIỐNG LAN TRÊN THẾ GIỚI (Tiếp theo)

Rhyncholaelia glauca feat

CÁC GIỐNG LAN TRÊN THẾ GIỚI (Tiếp theo)

Rhipidoglossum
Tông: Vandeae
Tông phụ: Aerangidinae
Phân bố: Có khoảng 35 loài ở lục địa châu Phi và những hòn đảo bên ngoài bờ biển phía tây. Có thân dài hoặc ngắn, có nhiều rễ, khi mà ngấm nước thì nổi lên những sọc trắng. Vòi hoa không phân nhánh. Hoa thường là nhỏ, trắng trong đục. Các lá đài và cánh hoa phẳng, các cánh hoa thường ngắn hơn và rộng hơn lá đài. Môi có cựa, thường chiều ngang lớn hơn chiều dài. Trụ hoa ngắn. Khối phấn 2, mỗi khối phấn có trụ riêng với chất nhầy.
Giống
Rhipidoglossum được xác định vào năm 1918, nhưng mãi đến gần đây, hầu hết những nhà làm vườn đã đưa chúng vào giống Diaphananthe. Vừa qua, sau khi phân tích ADN, đã kết luận rằng nên để chúng là một loài riêng biệt, mặc dù nhìn bề ngoài thì chúng giống nhau. Sự khác nhau quan trọng nhất là Diaphananthe mỗi khối phấn cũng có một cuống riêng, nhưng chúng lại cùng chung một khối nhầy, trong khi Rhipidoglossum là có 2 khối nhầy. Rhipidoglossum có hoa nhỏ hơn (trừ Rhipidoglossum kamerunense) và hầu hết các loài thuộc Diaphananthe có một mô sần giống cái móc trên môi, ngay chỗ miệng của cựa, trong khi ở Rhipidoglossum thì không có.

CÁCH TRỒNG 
Là loài lan thân ngắn nên trồng chậu, với chất trồng gồm các mảnh vỏ cây trung bình, nhưng đối với những loài có thân dài thì trồng ghép vào tấm dớn tốt hơn. Hầu hết các loài đều thích nghi với nhiệt độ trung bình, nhiều bóng râm và độ ẩm cao. Khi cây ngừng phát triển thì giữ khô, nhưng để khô hoàn toàn. 

Rhipidoglossom kamerunense
Cùng loài: Diaphananthe kamarunensis (Schlechtrer) Schlechter
Cây cứng cáp, thân ngắn, với bộ rễ cứng. Có nhiều lá, lá dài 36 cm, rộng 5,5 cm, hình mác ngược, đỉnh lá phân làm 2 thùy không đều nhau. Vòi hoa buông rủ, dài 10-12 cm, có 5-10 hoa, cuống hoa được bao bọc bởi lớp vỏ lụa giống giấy, dài 10-15 mm. Hoa to 3-4 cm (là loài có hoa lớn nhất trong giống này), hoa màu xanh xỉn hoặc vàng xỉn. Các cánh hoa giống hình bán cầu, riềm hoa xẻ . Môi to 20 x 24 mm, hình chiếc quạt, ở gần đỉnh có ba thùy, thùy giữa trống giống cái răng, đỉnh có lông. Cựa dài
12-14 mm. Lan biểu sinh, trong rừng và đồi cây vùng thấp, trên độ cao 1.000-1.800 m, ở Tây và Trung Phi.

Rhipidoglossum rutilum
Cùng loài: Diaphamanthe rutila (Reichenbach f.) Summerhayes
Thân dài 40 cm, thường buông rủ. Có nhiều rễ, đầu rễ thường là màu đỏ tía. Lá dài 12 cm, rộng 2 cm, thẳng hoặc hình đai, màu xanh ô-liu đậm, thường pha màu đỏ tía. Vòi hoa phát xuất dọc theo thân, dài 5-20 cm, có nhiều hoa mọc sít nhau. Hoa to chừng 6 mm, màu nâu đỏ, thỉnh thoảng có màu kem. Môi 4 x 5 mm, trông giống cái quạt. Cựa thon dài 4-8 mm, uốn cong.
Lan biểu sinh, thường ở vùng hạ du, trong những khu rừng rậm hoặc rừng ven sông, trên độ cao 550-2.200 m, trải dài ở vùng nhiệt đới châu Phi.

Rhipidoglossum xanthopollinium
Cùng loài: Diaphananthe xanthopollinia Reichenbach f.) Summerhayes
Loài này hơi khác với các loài cùng giống. Thân thường dài tới 30 cm, song cũng có khi ngắn hơn. Có nhiều rễ, rễ có đường kính 4-5 mm. Có một số lá, nhưng cũng có khi có nhiều lá, lá dài 15 cm, rộng 2,5 cm, hình đai, đôi khi hình chữ V, với phiến lá dầy. Cuống hoa mọc dọc theo vòi hoa, dài 9 cm, có nhiều hoa mọc sít nhau, hoa nhỏ, màu vàng kem hoặc cam ngả màu trái dâu, màu hoa tử đinh hương, hoa có hương thơm. Ra hoa vào mùa xuân hè.
Lan biểu sinh, trong các khu rừng cận sơn hoặc rừng ven sông, trên độ cao 600-1.800 m, ở Đông và Trung Phi, Nam Phi.
Loài tương tự: Rhipidoglossum pulchellum (Summerhayes) Gray, ở Tây, Trung và Đông Phi, có hoa màu vàng xỉn, hoa to gấp đôi so với Rhipidogloosum xanthopollinium.

Rhyncholaelia
Tông: Epidendreae
Tông phụ: Laeliinae
Phân bố: Có 2 loài ở Mexico và Trung Mỹ.
Giả hành dài, trông giống cái gậy bóng chầy, trên đỉnh có 1 lá, phiến lá dầy, màu xanh xám. Vòi hoa có 1 hoa, hoa to, màu sắc nổi bật, có hương thơm, hoa lâu tàn. Các lá đài phẳng, không liên kết với nhau, cánh hoa rộng hơn. Môi hình ống khói xe lửa, bao quanh lấy trụ hoa ở chân, môi liền hoặc có xẻ. Trụ hoa hình gậy đánh bóng chầy. Khối phấn 8 Hai loài thuộc
Rhycholaelia được sử dụng nhiều trong việc lai tạo với những giống có liên quan.

CÁCH TRỒNG
Cả hai loài đều dễ trồng, với điều kiện giống như
Cattleya, trồng trong chậu hoặc trong giỏ, với chất trồng thô, dễ thoát nước, ánh sáng mạnh, thông gió tốt. Vào kỳ nghỉ của lan thì giữ cho cây được khô hơn.

Rhycholaelia digbyana
Cùng loài: Brassavola digbyana Lindle
Giả hành dài 21 cm, to 2 cm, với lớp vỏ lụa trắng. Lá dài 20 cm, rộng 5 cm, đôi khi pha màu đỏ tía. Vòi hoa dài 14 cm. Hoa to 18 cm, hương nồng. Các lá đài và cánh hoa màu xanh xỉn. Môi trắng, riềm xẻ sâu.
Lan biểu sinh, trong các khu rừng khá dầy và khô ở hạ du, ở Mexico, trung Mỹ.

Rhyncholaelia glauca
Cùng loài: Brassavola glauca Lindley
Giả hành dài 8 cm. Lá dài 13 cm, rộng 3,5 cm. Vòi hoa dài 10 cm, hoa to 12,5 cm. Các cánh hoa và lá đài màu trắng hoặc xanh xỉn, ánh lên màu hạt dẻ ở mặt ngoài. Môi màu xanh xỉn hoặc trắng, riềm môi gợn sóng, ở phần chân có đốm màu hồng hoặc đỏ tía.
Lan biểu sinh, vài trường hợp là địa lan, trong rừng ẩm ướt, trên độ cao 600-1.600 m, ở Mexico đến Colombia./.

Hình trong bài: Loài lan Rhyncholaelia glauca feat
Ngày 25/2/3023

Ph. T. Kh.

 

Add a Comment

Your email address will not be published.