Paphiopedilum wardii Summerhayes

P. wardii

Phân giống (Subgenus) Sigmatopetalum (Tiếp)

  • 57. Paphiopedilum wardii Summerhayes

Trùng tên

Cypripedium wandii (Summerhayes) Curtis, non Rolfe

Dẫn nhập

Paphiopedilum wardii được Francis “Frank” Kingdon Ward, một đại úy quân đội phát hiện vào năm 1922. Ông ta đã tìm thấy cây lan này trong rừng ở miền bắc Burma (ngày nay gọi là Myanmar), nhưng tiếc rằng hoa của cây này đã bị mất khi ông đem nó về. Mặc dù sau đó vài năm ông ta đã tìm kiếm ở một khu vực nằm giữa Fort Hertz (Ngày nay gọi là Putao) và Nam Tamai, song cũng phải đến mùa đông 1930-1931 ông ấy mới tìm thấy mấy cây nữa cùng với loài ở nơi mà ông ấy đã phát hiện ra chúng vào năm 1922. Ward đã đăng một đoạn ngắn trong tạp chí The Gardeners’ Chronicle số năm 1932 về sự phát hiện này, lúc đó ông ấy gọi nó là Cypripedium sp. Xử dụng ghi chép của Ward, Summerhayes khoảng sáu tháng sau đã mô tả loài này một cách chi tiết. Nơi mà phát hiện ra loài này đã được Ward mô tả chi tiết trong ấn phẩm của ông ấy có tên là Plant Hunting on the Edge of the World (1930) and Burma’s Icy Mountains (1949) (các cây lan tìm thấy ở đỉnh của thế giới – 1930 và những ngọn núi băng ở Burma – 1949).

Paphiopedilum wardii Summerhayes không nên lầm lẫn với Cypripedium wardii Rolfe (1913), cây này đích thực là giống Cypripedium từ thượng nguồn sông Salween ở Tibet và từ phía tây Yunnan.

Paphiopedilum wardii vẫn là một ít cây quý hiếm trong bộ sưu tập của chúng tôi, lý do là việc đi đến Myanmar rất bị hạn chế. Việc thay đổi chính trị gần đây tại quốc gia này cho thấy trong một tương lai gần, khả năng đến đó sẽ dễ dàng hơn.

Nguồn gốc tên gọi

Đặt tên wardii là để vinh danh Francis “Frank” Kingdon Ward (1885-1958).

Mô tả

Paphiopedilum wardii là một loài thảo mộc thường mọc trên mặt đất, nơi có lá cây mục. Loài này thân ngắn, chỉ cao chừng 5 cm, thường sinh ra từ thân rễ mập và ngắn. Mỗi thân mang trên nó ba đến bốn lá thành hai hàng đối diện nhau. Hình dạng của lá là hình trứng thuôn, đầu nhọn chia làm ba thùy ở đỉnh, dài tới 17 cm, rộng chừng 5,5 cm. Mặt trên của lá có những vân khảm không đều nhau với màu đỏ sáng đậm, mặt dưới của lá có nhiều đốm đỏ tía. Vòi hoa hướng lên trên, cao tới 20 cm, màu ánh đỏ phủ đầy lông tơ, và thường chỉ có một hoa. Lá bắc hình mũi mác, đầu nhọn, ở đỉnh có ba thùy ngắn, dài 2 đến 3 cm, và gập theo đường sống gân lộ rõ. Bầu nhụy dài 4 đến 5 cm, màu ánh xanh hoặc đỏ, có lông tơ. Lá đài sau  hình ô-van hẹp, đầu nhọn, hướng lên trên, dài 4 đến 5 cm, rộng 2,5 đến 3 cm, lõm lòng chảo, phần đầu hơi khum xuống, có lông tơ thưa thớt. Trên lá đài sau có một số gân màu xanh chạy song với nhau, và riềm có lông mịn màu ánh đỏ. Các lá đài bên hợp nhất lại với nhau thành lá đài kép trông như mũi mác, đầu nhọn, dài 3,5 đến 4,5 cm. Lá đài kép hẹp hơn lá đài sau nhưng giống nhau về màu sắc. Các cánh hoa trải rộng sang hai bên, tuy vậy chúng vẫn tạo thành một góc theo đường ngang. Hình dạng của các cánh hoa là hình trứng thuôn hoặc hình trứng, đầu nhọn, hẹp dần về phía đỉnh, dài 5 đến 6,5 cm, rộng chừng 1,5 cm, phần mép của chúng có lông mịn. Các cánh hoa thường có những chấm màu nâu trên một nền màu xanh hoặc hồng. Càng về phía đỉnh màu càng trở nên hồng tía, và có từ hai đến tám sọc màu xanh song song với nhau. Môi có ba thùy, dài 5 đến 5,7 cm và rộng 2,3 đến 2,8 cm. Thùy chính của môi trũng sâu xuống và có hình dạng như chiếc mũ kết lật ngược, và ở phần chân có một mô lồi lên, thùy này dài chừng 4 đến 5 cm. Hai thùy bên cuộn vào bên trong tạo thành một cái ống kín màu xanh hoặc ngả vàng với những chấm giống mụn màu đỏ. Toàn bộ mặt ngoài của túi (hài) đầy những mụn, màu sắc bên ngoài túi là xanh với những sọc nâu và có một số chấm ở phía trước. Miếng nhụy lép có hình bán nguyệt, phần lưng có một rãnh không sâu; mặt trước có ba răng cưa dài 10 mm, rộng 1,2 đến 1,4 cm. Hai răng ngoài rộng hơn và hơi cuộn vào trong, và dài hơn răng giữa, điểm chính giữa của mép thấp có một mô nhọn. Màu của miếng nhụy lép là màu xanh với những sọc sẫm màu hơn, đôi khi ở tâm lại ánh lên màu hồng.

Phân bố và thói quen sinh trưởng

Miền đông bắc Myanmar và miền tây nam Trung quốc, mặc dù chưa ai xác định được một vùng cụ thể nào. Có một suy đoán rằng các cây lan này được xuất khẩu từ Trung quốc lần đầu tiên là từ Myanmar rồi mới lại xuất tiếp đi. Dù sao, một điều gần như chắc chắn rằng Paphiopedilum wardii đã xuất hiện dọc theo sông Salween. Ở Myanmar, người ta tìm thấy các cây lan này trong núi gần Putao, trên độ cao 1.200 và 1.500 m. Loài lan này thường mọc trên nền rừng, trong bóng râm gần gốc những cây, rễ của lan có thể ăn sâu vào phần lá mục. Loài này cũng thấy ở sườn dốc, ở đó rễ lan bám vào rêu phủ trên đá, và người ta cũng chỉ thấy có ít rễ bám vào dốc đá.

Mùa ra hoa

Trong nuôi trồng, các cây Paphioepdilum wardii ra hoa gần như quanh năm. Mùa hoa chính là từ tháng Giêng và tháng Hai.

Các biến loài và biến thể

Hoa của Paphiopedilum wardii có nhiều màu khác nhau cũng như màu của các vết khảm trên lá. Sự biến thiên này, dù sao cũng chỉ xảy ra trong phạm vi loài, và cũng chỉ có cây thực sự là albino mới được coi là đặc biệt.

Paphiopedilum wardii forma alboviride (Gruβ & Röth) Braem

Loài albino đặc hữu này được Gruβ & Röth mô tả trong Die Orchids (1998) là Paphiopedilum wardii var. alboviride. Cây này không có ánh đỏ. Màu của hoa là xanh ngả vàng đến xanh màu táo trên nền trắng, với các sọc màu xanh đậm trên lá đài sau và các cánh hoa . Cũng như vậy, trên mặt của túi có vận dạng mắt lưới, màu xanh đậm hơn. Được biết có một số sinh sản vô tính dạng albino./.

Hình trong bài (trên và dưới): Paphiopedilum wardii

Add a Comment

Your email address will not be published.