CÁC GIỐNG LAN TRÊN THẾ GIỚI

Sarcoglottis sceptrodes

CÁC GIỐNG LAN TRÊN THẾ GIỚI (Tiếp theo)

Sarcoglottis
Tông: Cranichideae
Tông phụ: Spiranthinae
Phân bố: Có khoảng 45 loài ở Mexico, Trung và Nam Mỹ
Là địa lan, có nhiều rễ lớn, mọc thành từng chùm, đôi khi hình thành một vài chùm dọc theo thân rễ bò lan của cây. Có một số lá, mọc từ điểm hoa thị ở gốc của thân, lá thường có cuống, màu xanh, thường điểm thêm những sọc và chấm màu trắng, có trường hợp lá màu nâu đỏ với những chấm màu xanh. Vòi hoa có lông mịn, không phân nhánh, có vài hoa đến nhiều hoa, đôi khi hoa xuất triện trước khi có lá. Hoa có phiến cánh dầy, kích thước hoa từ nhỏ đến trung bình, đôi khi có hương thơm. Mặt ngoài của các lá đài có lông mịn, lá đài sau cùng các cánh hoa hình thành cái mũ chụp che lên trên trụ hoa. Các lá đài bên liên kết với nhau một phần tạo thành tuyến mật ở bên trong. Môi ôm lấy phần chân của trụ hoa, phiến môi thường uốn cong. Chân trụ hoa dài hơn trụ hoa nhiều.
CÁCH TRỒNG
Việc trồng các loài thuộc
Sarcoglottis, chủ yếu lá để trang trí do lá của chúng có màu sắc đẹp. Nên trồng chúng ở những nơi có nền đất cứng, nông, với chất trồng là các loại mùn giữ ẩm tốt. Nhiệt độ thích hợp là từ trung bình đến ấm, trong thời kỳ phát triển cần tưới nhiều nước. Khi cây đã trưởng thành thì giữ cho cây khô hơn, nhưng không khô hoàn toàn hoặc không để bộ rễ bị hư hại.

Sarcoglottis sceptrodes
Cùng loài: Sarcoglottis hunteriana Schlechter.
Loài có nhiều lá, có cuống và hình ê-lip, dài 25 cm, rộng 7 cm, màu xanh khảm thêm các chấm và sọc màu trắng bạc. Vòi hoa dài 70 cm, có một số hoa, hoa dài chừng 4 cm, có mùi hương chanh, hoa nở cúp, màu xanh vàng với những vân màu xanh đậm. Hai lá đài bên nằm ngang hoặc uốn cong lên, gợn sóng. Địa lan trong những đồi cây ẩm ướt, trên độ cao 0-800 m, ở Mexico, Trung Mỹ

Loài tương tự: Sarcoglottis acaulis (J. E. Smith) Schlechter, ở Trung và Nam Mỹ, có các lá đài bên nhọn và cuộn xuống dưới  Satyrium
Tông: Diseae
Tông phụ: Satyriinae
Phân bố: Trên 80 loài, hầu hết là ở châu Phi, nhưng cũng có một số loài ở Madagascar và châu Á.
Là loài địa lan thân thảo, với thân củ hình cầu, hình trứng hoặc giống hình ê-lip. Lá mọc trên vòi hoa nhưng cũng cùng có thể mọc riêng biệt, khi đó thì trên vòi hoa sẽ có một lớp vỏ lụa của lá để lại. Vòi hoa không phân nhánh, có nhiều hoa mọc sít nhau hoặc xa nhau. Lá bắc thường lớn và đôi khi có màu sắc. Hoa mọc ngược (môi ở bên trên), nếu so với cây thì hoa có kích thước nhỏ, màu sắc khác nhau, thường có màu nổi bật. Các lá đài và cánh hoa gần giống nhau, liên kết giữa chúng với nhau và
liên kết với môi. Môi hình thành cái mũ chụp, miệng rộng hẹp khác nhau tùy loài, môi có 2 cựa, nếu cựa dài thì mảnh, ngắn tạo thành như cái túi. Trụ hoa dựng đứng, ở bên trong môi.
Khối phấn 2.
CÁCH TRỒNG
Các loài thuộc giống
Satyrium ít được trồng, đơn giản một phần là vì khó kiếm được chúng. Chúng có một thời kỳ phát triển nhất định, cây trưởng thành là vào mùa hè hoặc mùa đông. Khi cây đã trưởng thành thì giữ khô, chỉ bắt đầu tưới nước khi đã nhìn thấy chồi mới xuất hiện trên mặt đất. Ngưng tưới nước khi thấy lá bắt đầu vàng và chuẩn bị rụng. Cây cần được trồng nơi lộ thiên, chất trồng thoát nước tốt, thường người ta dùng cát lấy ở sông. Hầu hết các loài cần ánh sáng đầy đủ nhưng không khí phải mát.

Satyrium carneum
Cây to khỏe, cao 30-80 cm, có 2 lá mọc từ gốc, dài 23 cm, phần gốc bị bóp lại. Vòi hoa có vô số lớp vỏ lụa của lá. Cọng hoa có nhiều hoa mọc sít nhau, hoa lớn so với cây, các lá đài dài 18 mm, cựa dài 1,5-2 cm, song song với nhụy hoa. Ra hoa vào mùa xuân, cây trưởng thành vào mùa hè. Sinh trưởng ở những vùng có mưa vào mùa
đông, trên sườn đồi gần bờ biển, trên độ cao 15-300 m, ở Nam Phi (miền tây nam tỉnh Cape).

Satyrium coriifolium
Cây khỏe, cao 20-75 cm. Lá mọc trên thân, dài 15 cm, dựng đứng hoặc nằm ngang, hình ê-lip. Vòi hoa có nhiều hoa mọc sít nhau, hoa có màu cam sáng hoặc vàng sáng, các lá đài dài 13 mm. Môi cong về phía trước, với hai cái nắp phủ trên miệng. Cựa dài 9-12 mm, nằm dọc  theo nhụy hoa. Ra hoa vào đầu mùa xuân, cây
trưởng thành vào mùa hè. Sinh trưởng nơi có nhiều mưa, trên đất cát hoặc đất sét, trên độ cao 0-750 m, ở Nam Phi (từ miền tây nam đến miền đông tỉnh Cape)

Satyrium erectum

Cây khỏe, cao 10-50 cm, có 2 lá mọc từ gốc, lá gần như tròn, dài 4-16 cm, ở gốc bị bóp lại. Trên vòi hoa có vô số lớp vỏ lụa của lá. Cọng hoa có vài hoa đến nhiều hoa mọc sít nhau, hoa có hương nồng, mùi hương ngọt, màu hồng xỉn đến hồng đậm, với những đốm dậm màu hơn trên các cánh hoa và môi. Các lá đài dài 12 mm, cựa dài 7-9 mm. Thường ra hoa vào mùa xuân, cây trưởng thành vào mùa hè. Sinh trưởng nơi có nhiều mưa trên những vùng đất cát khô hoặc đất sét, trên độ cao 150-1.500 m, ở Nama Phi (Namaqualand và miền tây tỉnh Cape).

Satyrium nepalense
Địa lan, có thân đứng thẳng, cao 15-70 cm. Hơi dựng đứng hoặc nằm ngang, dài 10-25 cm, rộng 5-10 cm, hình thuôn, phiến lá khá dầy. Vòi hoa cứng cáp, với một vài lớp vỏ lụa của lá. Cọng hoa có nhiều hoa mọc sít nhau, các lá bắc của hoa lại dài hơn hoa. Hoa có hương thơm, màu hồng sáng, hiếm khi có màu trắng, hoa to 16 mm. Cựa dài 10-16 mm, dài hơn nhụy hoa. Ra hoa vào mùa hè, trưởng thành vào mùa đông. Loài này khá khó trồng trong vườn có khi khí hậu ôn hòa, vì vậy thường trồng chúng trong nhà trên núi.
Biến loài Var.
ciliatum (Lindley) Hooker f. (cùng loài Satyrium ciliatum Lindley), từ Bhutan, Trung quốc, Nepal tới Tây tạng, các lá đài và cánh hoa có lông mịn, với cái cựa dài dưới 1 cm. Sinh trưởng trên cánh đồng cỏ và trong các cánh rừng quang, trên độ cao 1.500-4.100 m, ở Bhutan, Ấn độ, Myanmar, Sri Lanka./.

Hình trong bài : Loài lan Sarcoglottis sceptrodes
Ngày 5/11/2022

 

Add a Comment

Your email address will not be published.