A. Loài Cypripedium wumengense C. Chen sp. nov.
Mặc dù vào năm 1985 người ta đã coi loài này là một loài mới; việc xếp nó vào loài không có lá bắc đúng là một biến thể của loài C. margaritaceum, không chỉ căn cứ vào nơi người ta tìm thấy chúng mà còn vì lá của chúng có đốm màu nâu của gan. Dù sao, vì thiếu những hiểu biết ban đầu, mà đưa ngay chúng vào cùng một giống hiện hữu trong bản phân loại là thiếu thận trọng, vì chỉ mới căn cứ vào duy nhất một đặc tính. Năm 1985, Chen đã đưa ra những phương pháp sau để xác định C.wumengense khác với C. magaritaceum:
- Các lá đài và cánh hoa trong loài wumengense không có lông, khác với loài C. magaritaceum có lông trên các lá đài và cánh hoa của cây lan. Ngoài ra, những lá đài và cánh hoa của loài C. magaritaceum này còn ôm sát lấy vòng lưng của túi, trong khi đó, các chi tiết này ở loài C. wumengense lại theo hướng mở.
- Môi của loài wumengense thì nhỏ hơn và trông như có những mụn. Tôi có liên hệ với Carson Whitlow, ông ấy cho biết thêm là môi của loài C. magaritaceum dầy hơn và không sâu, đồng thời như có viền quanh miệng.
- Lá của Loài wumengense có chiều dài lớn hơn chiều rộng, trong khi đó lá của loài C. magaritaceum chiều dài lớn hơn chiều rộng.
PHÂN BỐ THEO ĐỊA DƯ. Loài C. wumengense được tìm thấy ở tỉnh Vân Nam, Trung quốc.
MÔI TRƯỜNG SỐNG. Chúng sống trên độ cao 2.900 m, loài này phát triển trên triền núi Wu Meng, dưới bóng râm của những bụi cây, ở đó rễ của chúng hấp thu chất vôi.
NHỮNG LƯU Ý KHI NUÔI TRỒNG. Hiện nay chúng tôi không có thông tin gì về vấn đề này.
MÔ TẢ. Cây lan có chiều cao 22 cm, thân cây hình thành từ bộ thân rễ rất nhỏ. Phần gốc của thân được bao bọc bởi các lớp vỏ lụa của lá. Hai lá rộng mở mọc lần lượt và hướng lên trên. Lá có hình ê-lip, dài 11-13 cm, rộng 6,5-7 cm. Màu lá xanh có những đốm nâu, lá có lông mịn và có những đường gân nổi bật.
Chỉ có một hoa với các thành phần của hoa mở rộng và ngửa về phía sau, đo theo chiều ngang của hoa được 6-7 cm, không có lá bắc. Những phần của hoa một khi đã bị khô có màu da, sẽ xuất hiện những kẻ sọc, thông thường những sọc đó có màu đỏ tía.
Lá đài sau rộng, hình trứng, dài 3,5 cm và rộng 2,8 cm. Các lá đài bên dài 4 cm, rộng 2 cm, đầu chia làm hai thùy không sâu. Mép các lá đài đều có lông mịn.
Các cánh hoa rộng, hướng nằm ngang và cũng có lông mịn. Hình dáng cánh hoa như cái muỗng, mép cánh hoa cũng có lông, đầu cánh hoa không nhọn, chiều dài đo được 4 cm, trong khi chiều rộng chỉ có 1,5 cm. Bầu nhụy (túi) có hình bán cầu, đường kính 1,6 cm, mép của bầu nhụy gập vào trong.
MÙA RA HOA. Tháng Tư và Năm.
B. Loài Cypripedium yunnanense
Loài C. yunnanense nằm trong họ C. macranthum.
PHÂN BỐ THEO ĐỊA DƯ. Đây là loài đặc hữu của tỉnh Vân Nam, Trung quốc.
MÔI TRƯỜNG SỐNG. Rừng thông nơi khô cạn sẽ cung cấp bóng râm vừa phải cho loài này. Ngoài ra không có thông tin gì thêm.
NHỮNG LƯU Ý KHI NUÔI TRỒNG. Xin tham khảo lòai C. cordigerum.
MÔ TẢ. Thân có lớp lông thưa thớt, đứng cao 30 cm, mang trên nó 3-4 lá. Lá hẹp có lông, hình thuôn, đầu nhọn, dài 7,5-10 cm.
Chỉ có một hoa, hoa được đỡ bởi cái lá bắc hình thuôn rộng, dài 6 cm. Các lá đài cũng như cánh hoa trắng có sọc đỏ tía. Lá đài sau hình thuôn, đầu nhọn. Các lá đài bên hình ô-van. Các cánh hoa nhọn đầu và có hình mũi mác. Toàn thân cái túi có màu đỏ hồng với những đường gân màu đỏ sậm.
MÙA RA HOA. Tháng Sáu và tháng Bảy.
THÔNG BÁO.
Các bạn thân mến,
Như vậy chúng tôi đã dịch và đăng lên trang web kenhantan.com toàn bộ những thông tin mà chúng tôi có về giống lan hài Cypripedium, tổng cộng có 72 loài thuộc giống này.
Bắt đầu từ kỳ sau chúng tôi sẽ dịch và đăng cũng trên trang web này các loài thuộc giống lan hài Paphiopedium. Mời các bạn đón đọc.
Hình trên: Lan hài Cypripedium wumengense
Hình trên: Loài lan hài Cypripedium yunannense