Paphiopedilum urbanianum

P. urbanianum

Phân giống Sigmatopetalum (Tiếp)

72) Paphiopedilum urbanianum Fowlie

Dẫn nhập

Paphiopedilum urbanianum được tìm thấy trong một chuyến hàng về Paphiopedilum argus xuất phát từ đảo Philippine của Mindoro và được ông bà Jacinta T. Urban chủ một công ty hoa lan, đem bán cho ông Ray Rand, một nhà buôn của Mỹ. Paphiopedilum urbanianum là một loài nguyên thủy không thể lầm lẫn với các dòng khác, đặc biệt ở chỗ có chi tiết đối xứng màu xanh đậm trên miếng nhụy lép.

Năm 1987 Cribb đã đặt Paphiopedilum urbanianum có quan hệ gần gũi với Paph. javanicumPaph. argus. Trong lần xuất bản thứ hai cuốn Paphipedilum (Cribb 1988), ông ấy đã nhắc lại ý kiến của mình như vậy nhằm chỉnh sửa lại các kết quả nghiên cứu của Cox et al. (1997) ở đó ông hoàn toàn đồng ý về tất cả những vấn đề đã nêu ra. Thực tế, trong bản nghiên cứu như đã nói rằng, Paph. urbanianum là một loài khác với Paph. javanicum, cũng như tất cả những gi liên quan đều thuộc về một giống phụ và Paph. argus và 7 loài khác. Điều này chỉ ra rằng tất cả các công bố có liên quan tới mối quan hệ của Paph. urbanianum chỉ là suy đoán về những gì họ muốn hướng tới.

Nguồn gốc tên gọi

Tên urbanianum được đặt cho ông bà Jacinta T. Urban của Philippines.

Mô tả

Paphiopedilum urbanianum có nguồn gốc thảo mộc, mọc ở những nơi có lá mục. Lá của chúng dài đến 20 cm, rộng 4 cm, hình ê-lip hẹp, màu xanh cỏ, vết khảm trên lá màu xanh đậm hơn. Vòi hoa hướng lên trên, cao tới 25 cm, đường kính của nó khoảng 5 mm, đầy lông, mang trên nó một hoặc hai hoa. Lá bắc dài  2 đến 3 cm, rộng 1 đến 2 cm. Lá đài sau hơi uốn cong về phía trước, dài 2,6 đến 3,4 cm, rộng 3,2 cm, hình ê-lip mở rộng, đầu nhọn, pha trắng, với 13 đường sọc xanh chạy theo chiều dọc đôi khi có màu tử đinh hương. Các cánh hoa hơi cong, hình mũi mác ngược, phần đầu hơi tròn, dài 5 đến 6 cm, rộng 1,2 đến 1,5 cm, phần chân màu xanh với 7 hoặc 8 sọc xanh đậm, phần đầu cánh hoa màu đỏ tía, trên cánh hoa có những mụn màu hạt dẻ, có lông mịn. Môi như một cái túi sâu, dài tới 5 cm, rộng 2,2 đến 2,6 cm, hơi hẹp ở phía dưới có cái tai khá rõ màu xanh bóng, pha màu nâu da bò với những đường vân màu nâu pha xanh đậm. Miếng nhụy lép cao 1,1 đến 1,3 cm và rộng khoảng 1 cm, hình bán nguyệt, có những chấm đậm ở cả trên và dưới, diềm dưới có một răng nhỏ ở giữa loãm gian thùy, màu nâu pha vàng với một chi tiết mà xanh, có lông ngắn.

Phân bố và thói quen sinh trưởng

Ở quần đảo Philippines. Paphiopedilum urbanianum chỉ được thấy ở đảo Mindoro, trên độ cao 400 đến 800 m. Loài lan này mọc ở sườn phía đông nam. Chỉ tìm thấy chúng ở trên hoặc giữa các phiến đá ở nơi hoang dã, rễ của chúng luồn dưới lớp mùn hoặc lá mục.

Mùa ra hoa

Paphiopedilum urbanianum thường ra hoa từ tháng Ba đến tháng Năm, nhưng cây đề cập đến trong tài liệu này lại ra hoa vào thời điểm khác của năm.

Ghi chú thêm

Số nhiễm sắc thể là 2n = 40 (Karasawa, 1982)

Biến loài và biến thể

Paphiopedilum urbanianum forma alboviride Braem

Loài albino khá tương đồng về màu sa81c1 vớ Paphiopedilum wardii forma alboviride. Hoa của nó có màu xanh táo trên nền trắng, với những sọc màu xanh đậm ở lá đài sau và các cánh hoa./.

Add a Comment

Your email address will not be published.