Mô tả và cách trồng lan Ponthieva và lan Porpax.
Lan Ponthieva.
Xuất xứ tên gọi: Đặt tên theo Henri de Ponthieu, một thương gia người Pháp, người đã đưa những cây lan tư vùng West Indies tới Joseph Banks vào năm 1778.
Tông: Cranichideae.
Tông phụ: Cranichidinae.
Phân bố: Có khoảng 30 loài ở vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới châu Mỹ. Điển hình cho giống này là loài Ponthieva maculate, Ponthieva racemosa.
Địa lan hoặc lan biểu sinh, có bộ rễ lớn, không có giả hành. Có nhiều lá, thường xuất phát từ chỗ hoa thị ở thân. Vòi hoa ngắn, không phân nhánh. Lá bắc trông giống lá nhưng ngắn hơn hoa. Hoa mọc ngửa lên, các lá đài có lông tơ, đôi khi lá đài sau liên kết với các lá đài bên, lá đài sau nhỏ hơn lá đài bên. Các cánh hoa cũng nhỏ, không đối xứng, cánh hoa dính liền với một bên của trụ hoa . Phiến môi dầy, nhỏ, môi liền hoặc có ba thùy. Trụ hoa ngắn và cứng. Khối phấn 4.
CÁCH TRỒNG
Các loài thuộc Ponthieva có thể trồng trên nền đất cứng, đất nhiễm a-xit, với chất trồng dễ thoát nước. Chúng thích nghi với nhiệt độ trung bình đến ấm, nhiều bóng râm, độ ẩm cao. Sau khi cây lan đã ra hoa và hoa đã tàn thì giảm nước tưới, nhưng đừng để cho cây lan bị khô hoàn toàn.
Lan Porpax.
Xuất xứ tên gọi: Tiếng Hy-lạp, porpax nghĩa là tay cầm của tấm chắn, cái mộc. Căn cứ vào hình dạng hoặc là của lá hoặc là của giả hành.
Tông: Podochileae.
Tông phụ: Eriinae.
Phân bố: Có 13 loài ở vùng nhiệt đới châu Á. Điển hình cho giống này là loài Porpax meirax.
Lan biểu sinh hoặc thạch lan lùn, với bộ rễ bò lan. Giả hành hình trứng đến hình cầu, trước sau đều dẹt, được bao bọc bởi lớp vỏ lụa bị xé nhỏ tạo thành như mảnh lưới. Có 2 lá, lá mọc cùng với hoa, hoặc sau khi ra hoa. Hoa nhỏ, trông giống cái chuông. Các lá đài liên kết với nhau thành cái ống. Môi liền hoặc có ba thùy uốn cong ngược lại, nếu cắt ngang thì môi có hình chữ V.
CÁCH TRỒNG
Để thành công nên trồng bằng cách ghép. Chúng thích nghi với nhiệt trung bình, râm vừa phải, độ ẩm cao, tưới nhiều nước trong giai đoạn phát triển.
Lan Ponnthieva maculata.
Lan Porpax meirax.