Paphiopedilum emernosii

Paph. emersonii

Paphiopedilum emernosii Koopowitz & Gribb

Cùng loài

Paphiopedilum huonglanae N.T. Tich

Tạp chí Hoa Cảnh số 3, 10-11 (1998)

Paphiopedilum emernosii var. huonglanae trong tạp chí Hoa Cảnh số 4, 12 (1998)

Nhập đề

Paphiopedilum emernosii có thể được coi là một loài lan hài gây ấn tượng trong  phạm vi một phân giống (subgenus). Có rất ít thông tin về việc phát hiện ra cây lan này và ngay cả nguồn gốc của nó cũng còn chưa xác định. Dù sao, cây này cũng được nhập từ Trung quốc qua Hongkong. Cũng có ý kiến cho rằng cây lan đã được khai thác ở Hai Num thuộc tỉnh Ghuizhou, vùng tây nam Trung quốc. Lần đầu tiên nó được Henry Azadehdel mang về lục địa châu Âu, ông ấy đã đem chí ít là một cây mẫu cho Gustav Schoser, khi đó ông này là giám đốc của ‘Palmengarten’, một vườn ươm ở Frankfurt. Rất tiếc là Schoser lại không nhìn nhận đó là một loài mới. Chẳng bao lâu sau, cây lan ra hoa ở California, trong vườn cây được sưu tập của Emerson “Doc” Charle về nó.

Mặc dù không còn nghi ngờ gì nữa rằng, Paph. emersonii thuộc vào phân giống Parvisepalum, nhưng nó cũng có chút ít khác với những đặc điểm chung của nhóm này. Đương nhiên, kích thước của túi nếu đem so với kích thước tổng quát của hoa, nó không thực sự lớn như những cây khác trong phạm vi một nhóm. Hình dạng và kích thước hoa của Paph. emersonii gợi cho ta về hoa của Paph. bellatulum, nhưng cây của loài này giống với cây con của loài Polyantha hơn. Mặt khác cũng có một vài sự khác biệt về tính chất thực vật học. Như là các lá của hầu như tất cả, chỉ trừ một loài đã được phân loại trong phạm vi Parvisephalum (ngoại trừ Paph. hangianum) lá có khảm màu đậm, trong khi đó lá của Paph. emersonii thì cũng khảm màu nhưng nhạt hơn. Do sự khác biệt này nên Cribb có đề nghị rằng Paph. emrsonii có thể là một hình thái trung hòa giữa các nhóm mà hiện nay người ta đã chấp nhận một cách tổng quát như phân nhóm Parvisepalum với phân nhóm Brachypetalum. Trong bản mô tả đầu tiên của Koopowitz & Cribb, thấy rằng các lá của Paph. emersonii thiếu hẳn màu đỏ tía thể hiện ở mặt dưới của lá. Trong khi đó ở những cây khác thì dù ít nhưng vẫn có.

Nguồn gốc tên gọi

Tên emersonii là để vinh danh Emerson “Doc” Charles, một nhà sưu tập lan từ California, Hoa kỳ, người đã cho cây lan này ra hoa trở lại vào năm 1986.

Mô tả

Paphipedilum emersonii là một cây thuộc loài thảo mộc, chúng sống nơi có mùn lá. Chiều cao của cây có thể lên tới 18 cm. Các lá hình lưỡi và dai như da. Mặt trên của lá khảm mờ nhưng rõ, thoạt nhìn như một màu xanh lá không đồng nhất. Mặt dưới của lá có sống cứng và màu sắc của nó là màu xanh cỏ sáng, phần chân có ít nhiều chấm đỏ tía. Vòi hoa đứng thẳng. Người ta tìm thấy ở những cây mẫu có hai hoa, nhưng dù sao thì đặc tính này cũng thường xuất hiện ở tất cả các loài khác trong phân giống Parvisepalum. Cán hoa có màu kem, có vân và lông trắng, dài chừng 12 cm, đường kính 5 mm. Chiếc lá bắc hình ê-lip, màu trắng, nhọn đầu, gập đôi lại, mỏng như giấy, dài 2,8 cm và rộng 2 cm. Hoa to không tương xứng với cây, đo chiều ngang được 8,5 đến 9,5 cm. Các lá đài và cánh hoa dầy, màu trắng ánh lên một chút hồng nhạt ở phần chân của lá đài. Môi của hoa hình trứng ngược, màu từ kem đến vàng xung quanh riềm ánh lên màu hồng, bên trong có những đốm màu đỏ tía. Tấm nhịp lép có màu vàng sáng với những điểm đỏ. Cái cuống của nó nhỏ và bầu nhụy dài chừng 3 cm, màu trắng pha vàng, có lông mượt như nhung. Lá đài sau hơi giống cái mũ, che trên cái môi của hoa, lá đài dài 4 đến 4,5 cm, rộng 3,3 cm. Đó là hình ô-van dạng ê-lip, đầu nhọn, cả hai mặt đều có lông tơ, mặt ngoài có đường sống cứng. Các lá đài bên hình ê-lip đến hình bán cầu, đầu nhọn, chiều dài và chiều rộng gần như nhau, tức là 3,5 cm. Cả hai mặt của các lá đài này đều có lông tơ, mặt sau lại có hai đường sống. Các cánh hoa thì cuộn vào trong, có hình dạng ê-lip rộng đến hình bán cầu, đỉnh từ nhọn đến tù, chiều dài và rộng tới 4,5 cm, có lông tơ ở cả hai mặt. Cái môi tạo thành cái túi sâu dài 3,5 cm và rộng 3,0 cm. Riềm của túi cuộn vào bên trong và tạo thành những đường rãnh dọc theo đường gân. Trụ hoa ngắn. Miếng chắn của nhịp lép phồng lên, trông như bị chặt cút, dài 2 cm, rộng 1 cm, có những rãnh sâu hướng về phía đỉnh. Đầu nhụy có dạng cái thìa và có những lông ngắn.

Phân bố và thói quen sinh trưởng

Paphiopedilum emersonii được tìm thấy ở miền tây nam Trung Hoa dọc theo rìa phía đông của bình nguyên Guizhou ở tỉnh Yunnan, Trung quốc, trên độ cao 460 đến 700 m. Các cây lan này thường mọc trên mặt đá quay về hướng đông bắc nơi đá kết thành khối. Các khôi đá này hình thành khi đá vôi bị bào mòn bởi nước mưa và, sương mù, khi đông cứng lại thì tạo thành các vết nứt trong các vết nứt đó có cát, đất sét và mùn đọng lại. Các khối đông cứng đó giống với một mạng lưới bùn, có tác dụng liên tục giữ độ ẩm bởi nước đọng, bên trên lại được phủ một lớp rêu. Paph. emersonii mọc trên những thảm rêu đó, bộ rễ của nó đâm sâu và chỗ ẩm ướt của khe đá bên dưới.

Mùa ra hoa

Paphiopedilum emersonii ra hoa giữa tháng Ba đến tháng Sáu. Trong môi trường tự nhiên, nó ra hoa từ tháng Năm qua tháng Sáu.

Biến thể và biến loài

Fowlie (1990) chia các loài thành những gì mà ông ấy gọi là biến loài, dựa trên ba chủng theo địa lý. Dù sao những chủng theo địa lý này không có khác biệt nhiều lắm để có thể đưa ra bất kỳ tiêu chuẩn phân loại nào. Hơn nữa, cách mô tả của những cây được gọi là biến loài này đều không có giá trị theo nguyên tắc phân loại. Việc phân loại được nói ở đây chỉ nhằm mục đích cho đầy đủ thôi, do vậy, bản mô tả dưới đây chỉ là do Fowlie viết.

Paphiopedilum emersonii var. kwang-namensis Fowlie

Chủng này từ Kwang-Nan nơi tận cùng của miền tây-nam Yunnan, hoa của nó đẹp bởi những đốm tím đỏ ở chân của các cánh hoa, hoa cũng to và tròn nữa.

Paphiopedilum emersonii var. guangxiensis Fowlie

Đây là một chủng của vùng tây bắc Guangxi. Chủng này có hình dạng đẹp nhưng màu của túi thì hơi nhạt.

Paphiopedilum emersonii var. angustipetalum Fowlie

Chủng này thật sự không đẹp là một loài có các cánh hoa kéo dài, mềm, làm cho bông hoa không thanh nhã. Nó xuất hiện ở vùng núi Yun Kai Dah, phía tây của Canton gần Yang Chhun (Sunny Spring), có một thời gian dài là một khu du lịch, nhưng nay một nhà máy xi-măng đã được thiết lập. Ngày nay chủng này hầu như bị mất dạng trong tự nhiên./.

Paph. emersonii 'The Queen'

Hình trên: Paph. emersonii ‘The Queen’

 

Add a Comment

Your email address will not be published.