Paphiopedilum bellatulum

Paph. bellatulum fma

PHÂN GIỐNG BRACHYPETALUM

Paphiopedilum bellatulum (Reichenbach fil.) Stein

Cùng loài

Cordula bellatula (Reichenbach fil.) Rolfe

Dẫn nhập

Paphiopedilum bellatulum đầu tiên nhập vào vào châu Âu vào mùa xuân năm 1888 bởi người thành lập công ty Sruart Low & Co., về hoa lan. Nguồn gốc của loài này là ở miền đông của Pyin-Oo-Lwin (sau này gọi là Maymyo) ở Myanmar (sau này gọi là Burma). Vườn ươm của ông Low vào năm 1888 đã cung cấp cho H. G. Reichenbach những nhân tố để mô tả đây chính là loài Cypripedium bellatulum.

Hai thập kỷ qua, gần như tất cả các cây thuộc loài này đưa về vườn trồng đều có nguồn gốc từ Thái Lan. Chỉ có một cây được ghi nhận là từ Myanmar.

Paph. bellatulum có quan hệ gần gũi với Paph. godefroyae. Được thấy có những đặc tính như hình dạng thấp lùn hơn, hoa lớn một cách đáng kinh ngạc, một cái túi (hài) hẹp hơn và gần với hình côn hơn, nhịp lép ít lông hơn.

Tài liệu về albino đã mô tả như là cây Paph. bellatulum var. album được sưu tập từ bang Shan của Myanmar bởi R. Moore và đưa vào nuôi trồng bởi vườn ươm Charlesworth. Năm 1895 được giải thưởng của Hội Làm vườn Hoàng gia.

Vào giữa năm 1980, nhiều cây được nhập vào châu Âu thể hiện những đặc tính trung gian giữa Paph. comcolorPaph. bellatulum. Những cây này đến châu Âu qua đường Hong Kong và đưa vào trồng với cái tên Paph. conco-bellatulum. Mặc dù thực tế là những cây được sưu tập được xác định đó là cây lai giữa Paph. concolorPaph. bellatulum, cây này được Heath & Son đăng ký dưới cái tên Paph. conco-bellatulum vào năm 1891, một thực thể được công bố như là một cây lai tự nhiên dưới cái tên Paph. xwenshanense (Liu Zhong 2000). Đương nhiên việc này đã gây ra nhiều phiền toái. Những cây sưu tập trong tự nhiên được đặt tên là Paph. xwenshanense, trong khi những cây lai tạo trong vườn thì lại đặt tên là Paph. conco-bellatulum. Dù sao, sự khác nhau giữa các cây lan được sưu tập trong tự nhiên với cây lai bằng cách nhân tạo ngày càng trở nên nghiêm trọng.

Nguồn gốc tên gọi

Tên bellatulum là đặt theo vẻ đẹp của hoa.

Mô tả

Paphiopedilum bellatulum là một loài lan có thân nhỏ, hiếm khi đạt tới chiều cao 10 cm. Đây là một dạng thảo mộc sống lâu năm, với những cái lá hình ê-lip dài 15-20 cm và rộng 6 đến 8,5 cm. Đầu lá không nhọn, đỉnh lá không đối xứng. Mặt trên của lá khảm màu xanh sặc sỡ, và mặt dưới của lá có những đốm màu đỏ tía. Lá đài sau dài chừng 2,5 cm, rộng tới 4 cm, hình ê-lip tới hình bán cầu, phía ngoài có gân cứng và phủ đầy lông ngắn. Lá đài kép dài gần bằng lá đài sau, nhưng lại có màu trắng, hơi hẹp và cũng có lông ngắn. Các cánh hoa hình ô-van rộng, dài 5 cm và rộng từ 2,8 đến 3,5 cm và hơi uốn cong xuống phía dưới, đầu cánh hoa hơi nhọn và có lông mịn ở đỉnh. Môi có ba thùy, thùy chính tạo thành cái túi hình trứng hẹp đến hình bầu dục, chiều dài của túi đó được 3,5 cm, chiều ngang 2 cm. Mặt ngoài của túi có một ít đốm nhỏ nếu so với những thành phần khác của hoa. Các thùy hai bên có nhiều đốm và cuộn vào trong tạo thành một cái ống. Tấm nhịp lép hình thoi cho đến bán cầu, dài 8 mm và đo chiều ngang được 1mm, đỉnh của nó có ba răng cưa, phần giữa màu trắng với những đốm đỏ, tâm màu vàng.

Phân bố và thói quen sinh trưởng

Paphiopedilum bellatulum sinh trưởng ở vùng đông bắc Myanmar và rìa khu vự phía tây bắc Thái Lan. Thông thường loài lan này sống trên độ cao 1.000 đến 1.500 m so với mực nước biển, trong những khu vực có bóng râm nhẹ của các rừng tạp và cằn cỗi, nhưng đôi khi cũng thấy chúng có mặt ở độ cao 340 m. Chúng thường mọc trong những khe nứt và hốc giữa các tảng đá vôi. Các cây khỏe mạnh thường sống ở ngoài bìa, nơi có thể tiếp xúc với nước, ở đó rễ của chúng có thể tiếp cận với đất mùn, lá cây mục và rêu.

Paphiopedilum bellatulum cũng được tìm thấy ở tỉnh Yunnan của Trung quốc và vùng đông bắc Ấn độ. Năm 1975, Seidenfaden trình bày rằng, có một vài ghi chép về một loài có tên Paph. godefroyae ở vùng thượng Lào, có thể thực tế đó là Paph. bellatulum, nhưng trong phần nói về sự phân bố của loài này trong tài liệu cuối cùng của  Seidenfaden lại không nói gì về loài này trong các loài lan ở Đông Dương (1992).

Mùa ra hoa

Các cây Paph. bellatulum đã được ghi nhận là khi đưa về nuôi trồng, chúng ra hoa quanh năm. Tuy vậy mùa hoa chính vẫn là từ tháng Tư cho đến tháng Bảy.

Các biến loài và biến thể

Người ta đã được biết toàn bộ các biến loài của Paph. bellatulum. Chỉ trừ thể albino, thực ra tất cả biến thể đều là trong tự nhiên của các loài, vì vậy vấn đề phân loại như là một biến loài cũng không chắc chắn. Sự biến thể thường dựa trên một cây mẫu, mà ít nhiều có sự khác nhau từ cách định danh nơi xuất phát, từ việc sản sinh hai hoa trên một vòi hoa hoặc từ hình thể, màu sắc, hoặc những vết đốm của hoa. Trong một vài trường hợp, những cây được là “rất đẹp” đã được nâng cấp lên thành một biến loài riêng, và chí ít thì chúng ta cũng thấy một trường hợp như vậy, đó là cây lai trong tự nhiên giữa Paph. concolorPaph. bellatulum.

Paphiopedilum bellatulum forma album (O’Brien) Braem

Cơ sở của tên gọi này

Paphiopedilum bellatulum album O’Brien

Màu hoa của Paph. bellatulum forma album là trắng thuần, không hề có một đốm nào. Biến loài này không thực hiếm trong tự nhiên, và nó được một số người trồng quảng cáo bằng tranh vẽ, vì vậy nay gần như không còn trong các vườn nuôi trồng. Trong cuốn tạp chí Hoa lan vào tháng Ba năm 1932, một tác giả đã đưa ra loài Paph. godefroyae song lại viết là “C. bellatulum album, là một loài với một màu trắng thuần, và C. bellatulum ‘Exhim’s var.’, là loài có rất nhiều đốm, cả hai loài này được biết rõ trong vườn trồng”./.

Paph. bellatulum album

Hình trên: Paphiopedilum bellatulum album

Hình đầu bài: Pahiopedilum bellatulum forma

Add a Comment

Your email address will not be published.