Paphiopedilum spicerianum

Paph. spicerianum

Paphiopedilum spicerianum (Master & T. Moore) Pfitzer

Tên cũ

Cypripedium spicerianum Masters & T. Moore

Cùng tên

Cordula spiserianum (Reichenbach fil. [sic.] Rolfe

Dẫn nhập

Vào mùa thu năm 1878, một cây lan hài mà trước kia người ta chưa biết tên nó là gì đã ra hoa trong nhà kính của ông Spicer và phu nhân thuộc Woodlands, gần Godalming, không xa London của nước Anh. Sau đó thì hoa của nó được gởi cho công ty Veitch & Sons, ông Veitch rất ấn tượng rồi chuyển đến nơi ở của Spicer để nghiên cứu về thói quen sinh trưởng của loài mới này. Ông ta chỉ được người ta cho biết, cây lan này được đưa từ Ấn độ về, coi đó là một trong số các loài trong một bộ sưu tập, chỉ có điều nên tìm thêm thông tin về loài này. Vào năm 1889, trong một ghi chép riêng của mình, Veitch cho biết “đã sắp xếp các thành phần của cây lan mà chúng tôi thỉnh thoảng nhận được để nhân gống”. Các ghi chép cho chúng ta biết Veitch đã phải trả 70 guineas cho các cây lan, số tiền khi đó tương đương với tiền lương của một công nhân nông nghiệp thu nhập trong một năm rưỡi.

Công ty của Veitch & Sons quyết định phản đối việc gởi đến một nhà sưu tập để tìm kiếm thêm các cây loại này, bởi vì họ không có bất kỳ thông tin gì về nơi mà loài lan đã sinh trưởng. Thay vào đó, họ đã bán những nhánh cây sau khi đã phân chia được. Mỗi nhánh như vậy được bán với giá trên trời. Từ đó, chúng ta không ngạc nhiên khi các công ty khác như Low & Co. và Sander & Co. trở nên rất quan tâm đến lĩnh vực này. Trước đó khá lâu, Sander đã thu xếp một tiệc trà tại dinh thự của Spicer, trong cuộc trò chuyện ở đó đã lộ ra là con trai của chủ nhà đang sở sữu một khu vườn trà ở Bhutan. Sander chẳng chút chần chừ, lập tức phái ngay một nhà sưu tập siêu hạng là Förstermann đi thăm con trai Spicer. Đúng hẹn, Förstermann đã thu thập các thông tin có giá trị về thói quen sinh trưởng của cây, những thông tin đó là từ người quản lý của ông Spicer, người đó thực sự đã tìm ra cây lan đầu tiên trên lãnh thổ của Bhutan. Förstermann đã tiếp tục tìm kiếm nơi sinh trưởng của chúng và gởi về nước Anh 40.000 cây (!). Các cây đã được đem ra bán đầu giá ở sàn đấu giá của Steven ở London vào ngày 9 tháng Ba, 1884, nhưng vì số lượng cây quá lớn, nên không lấy gì làm ngạc nhiên là họ đã rất mánh bằng cách đưa ra cái giá thấp cho mỗi cây so với cái giá mà họ bán mỗi nhánh chỉ cách đó vài tháng. Không lâu sau đó, các nhà sưu tập của công ty Low & Co. cũng tiếp cận được nơi chúng sinh trưởng và nơi khác nữa, số lượng cây Paph. spicerianum lại được chuyển về nước Anh kỳ này có lẽ cũng nhiều như vậy.

Mặc dù Reichenbach đã nhận được tài liệu từ Veitch về loài Paph. spicerianum  vào năm 1878, nhưng ông ta cũng không công bố bản mô tả về chúng, cho mãi đến hai năm sau. Đồng thời, Master & T. Moore (1879) đã công bố bản mô tả, như vậy Reichenbach công bô bản mô tả vào năm 1880 thì không còn ảnh hưởng gì. Các tác giả của bản mô tả gốc đôi khi đề cập như là “Reichenbach ex Master & T. Moore”. Song không thấy có chứng cớ nào nói rằng Master & T. Moore đã dùng các tài liệu của Reichenbach cho phần mô tả của người đó về loài Cypripedilum spicerianum trong năm 1879.

Nguồn gốc tên gọi

Tên spicerianum được đặt để vinh danh ông Spicer và phu nhân.

Mô tả

Paphiopedilum spicerianum là một loài  thảo mộc, với thói quen mọc thành từng cụm, mỗi thân mang từ bốn đến năm lá. Các lá thường phẳng  đến rủ xuống, hình ê-lip hẹp đến hình trứng thẳng hoặc hình cái lưỡi, đầu có thể nhọn nhưng cũng có thể tù, dài 15 đến 30 cm, rộng 3,5 đến 6 cm. Mép lá có thể quăn nhiều hoặc ít, có màu xanh sẫm, mặt trên có một đường rãnh. Sống lá ở mặt dưới có màu xanh sáng, có những đốm màu tím đỏ chạy xuống phía chân. Đầu lá thường có răng. Vòi hoa dài 13 đến 35 cm. Cuống hoa nhỏ, thon, hướng lên trên, hơi uốn cong, dài 8 đến 23 cm, màu đỏ tía, ở phần chân nhẵn bóng và phía trên có lông tơ. Mỗi vòi hoa thường có một hoa ít khi có hai hoa. Lá bắc hình ê-lip, có thể nhọn đầu, cũng có thể không, dài 1,8 đến 3 cm. Cái cuống nhỏ và bầu nhụy dài 3,5 đến 5,5 cm, mặt nhẵn và có màu tím đỏ. Đo chiều cao của hoa được 5,5 đến 8 cm, rộng 5,5 đến 7 cm. Lá đài sau có hình trứng ngược , sau chuyển thành hình ê-lip hoặc hình trái tim ngược, uốn cong về phía trước, cao 2,7 đến 4,2 cm và rộng 3,5 đến 5,5 cm. Phần giữa gập lại theo chiều dọc, riềm hai bên đối xứng ở phần chân, và riềm ở phần ngọn uốn cong. Lá đài có lông tơ màu trằng, ngoại trừ ở phần giữa gập lại thì có màu đỏ thắm dến màu hạt dẻ ở phần kẻ sọc ở giữa, có một mụn màu xanh, chân của nó màu đỏ mờ, đôi khi phần trên lại pha hồng. Lá đài kép hình trứng hoặc hình trứng rộng, màu xanh sáng với cái riềm trắng, phần ngọn gần như nhọn, dài 2,7 đến 3,5 cm, rộng 1,5 đến 2,2 cm. Các cánh hoa cong hình lưỡi liềm cho đến giống cái lưỡi động vật, thon như búp măng, đầu cánh hoa khi nhọn khi tù, cong xuống phía dưới, riềm gợn sóng, lông tơ chỉ hướng về phía đầu cánh, màu xanh ngả vàng, có những đốm màu đỏ mờ, ở tâm có những sọc màu đỏ thắm đến màu đỏ nâu. Cánh hoa dài 3 đến 4 cm, rộng 8 đến13 mm. Môi tạo thành một cái túi sâu dài 3,5 đến 4,3 cm, rộng 2,5 đến 3 cm, màu xanh đồng sáng đến màu xanh xỉn, và pha màu đỏ tươi đến nâu với những vân màu nâu sẫm và những chấm đỏ tía trên hai thùy bên, các thùy đó cuộn vào trong tạo thành một cái ống. Miếng nhụy lép có hình bán nguyệt. Ở mặt trên của nó tạo thành hình chữ V. Ở tâm của miếng nhụy lép có màu đỏ đến màu tím, tạo nên một hình tam giác không đều màu xanh đến màu vàng đỏ trứng gà, tạo thành gần như một hình chữ thập.

Phân bố và thói quen sinh trưởng

Miền đông bắc Ấn độ và Myanmar, Paphiopedilum spicerianum được tìm thấy ở dọc biên giới giữa bang Mizoram và bang Manipur . Chúng mọc ở giữa hai sông Barak và Sonai gần Silchar và người ta còn cho biết chúng mọc cả ở miền cực tây bắc của Myanmar. Chúng mọc trên các khe nứt và các vỉa đá vôi ở độ cao từ 300 đến 1.300 m. Paph. spicerianum thường mọc dưới bóng cây dương xỉ và cây gừng, nhưng cũng còn tìm thấy chúng ở những địa điểm khác trong các hố nông chứa đầy mùn ở nơi có đá vôi, ở đó các rễ của chúng bám chặt vào đá, dưới lớp mùn và rêu ở các gốc cây, hoặc trên các lớp rêu phủ trên đá. Chúng chỉ mọc ở những nơi có nguồn nước. Ngay cả trong mùa đông nhờ có độ ẩm từ lớp sương phủ hàng ngày trên các khe nước, và nước chảy qua các sườn dốc ở đó lúc nào cũng ẩm ướt.

Mùa ra hoa

Paphiopedilum spicerianum khi được nuôi trồng ra hoa từ tháng Bảy qua tháng Tư năm sau, cao điểm là từ tháng Mười đến tháng Mười hai. Ở nơi hoang dã, chúng ra hoa vào mùa thu.

Biến loài và biến thể

Paphiopedilum spicerianum được chú ý vì màu hoa cũng như hình dáng hoa của nó, đây có thể là một loài ổn định nhất trong giống của nó. Kích thước của hoa dù sao cũng không hoàn toàn đồng nhất. Theo như các tài liệu và được nhận biết thì có khoảng 20 biến thể, 11 loài trong số đó không được mô tả hoặc minh họa một cách rõ ràng. Chỉ có loài albino được mô tả như là immaculatum, được ghi nhận qua nghiên cứu khoa học và qua nuôi trồng.

Biến loài Paphiopedilum spicerianum forma immaculatum Braem

Cây lan mà thiếu sắc đỏ, như vậy được gọi là thuần albino. Các lá đài của chúng chỉ một màu trắng, các cánh hoa và môi thuần một màu xanh, và miếng nhụy lép cũng trắng. Có thể tương đồng với cây của cùng một tác giả trong Tạp chí Hoa lan năm 1897./.

Paph. spicerianum

Add a Comment

Your email address will not be published.