Papiopedilum appletonianum

P appletonianum

Papiopedilum appletonianum (Tiếp theo kỳ trước)

Nguồn gốc tên gọi

Tên appletonianum đặt cho loài này để vinh danh ông W. M. Appleton, người đầu tiên đã nuôi loài này ra hoa.

Mô tả

Paphiopedilum appletonianum là một loài thảo mộc lưu niên trong những vùng lá mục ở trên nền rừng. Thân của loài này khá ngắn, chỉ cao 2 đến 3 cm, mang trên nó ba đến tám lá. Lá quăn, dài 23 cm, rộng 2,5 đến 5 cm, là hình ê-lip hẹp đến ê-lip dạng lưỡi, đầu lá nhọn có ba răng cưa, mặt lá nhẵn, riềm lá có một ít mụn, mặt trên của lá có màu xanh sáng với những đường vân màu xanh đậm hơn; mặt dưới của lá màu xanh xám, phần gốc lá ánh lên màu đỏ tía, có gân sống lá nổi rõ. Vòi hoa màu nân  cao từ 16 đến 60 cm, che phủ lớp lông ngắn, và thường chỉ có một hoa trên mỗi vòi hoa. Lá bắc dài 1,8 đến 2,5 cm, hình ô-van, phủ lớp lông ngắn, có sống gân, phần gốc màu xanh và tía. Bầu nhụy dài 3,5 đến 6,5 cm, phủ một lớp lông ngắn, màu chuyển từ nâu tím đến nâu đỏ. Lá đài sau và lá đài kép có đường sống gân không nổi rõ, riềm có lông tơ. Mặt ngoài của các lá đài có một ít mụn như những cái gai nhỏ và cũng có chút ít lông và lông tơ ở phần chân. Mặt trong của lá đài cũng có những mụn nhỏ và lông ngắn. Lá đài sau hình ô-van, đầu nhọn, phần chân cuộn ra phía sau. Toàn bộ lá đài giống như cái nắp và ngả về phía trước. Màu của lá đài là xanh táo, có những vân đậm màu hơn, dài 3,5 đến 4 cm và rộng chừng 2,5 cm. Lá đài kép hình ê-lip giống trứng, đầu nhọn dài 2,5 đến 3 cm và rộng chừng 1,5 cm, màu xanh táo. Các cánh hoa có hình cái lưỡi đến hình cái muỗng, càng về phía đỉnh càng rộng ra, đôi khi lại phân thùy ở đỉnh. Đầu cánh hoa hơi tù, hơi xoắn, dài 5 đến 6 cm, rộng 1,4 đến 2 cm, mặt nhẵn, riềm có lông với hơi gợn sóng. Các cánh hoa hơi chếch lên phía trên, nhưng đôi khi hơi rủ xuống. Màu của các hoa là màu xanh sáng với một ít chấm màu nâu chạy xuống phía chân rôi hòa tan thành màu hồng tía. Môi có chiều dài 4,5 cm, rộng 1,5 đến 1,8 cm, chia làm ba thùy. Hai  thùy bên cuộn vào trong rồi tụ lại, phủ trên bề mặt là những mụn sáng. Thùy giữa tạo thành một cái túi sâu, tạo hình thành một cái mũ két để ngửa, thùy hai bên trông như hai tai gấu; mặt ngoài của túi nhẵn song mặt bên trong lại có nhiều lông. Môi có màu nâu đỏ, phần dưới trở nên nhạt hơn, phần đầu có màu trắng kem. Vành miệng túi có màu xanh ô-liu. Miếng nhụy lép hình mũi mác trông như con thoi, ở giữa có một nướu ở phần bụng của thùy lõm, thùy ở mặt bụng thì có chiều dài khác nhau tùy từng cây. Tâm của miếng nhụy lép có màu xanh sẫm hơn, viền của nó màu trắng, và cũng có một ít lông, miếng nhụy lép dài chừng 7 mm và chiều rộng không đáng kể.

Phân bố và thói quen sinh trưởng

Chúng có mặt ở Thái lan, Campuchia, Lào, Việt Nam và đảo Hải Nam Trung Hoa. Nói chung, loài này thường bám rễ vào những nơi có lá cây mục dầy, những mảnh vỏ cây mục. Nhưng thỉnh thoảng cũng tìm thấy chúng ở những vỉa rêu trong khu rừng rậm. Chúng mọc trên độ cao 400 m và 1.500 m.

Mùa ra hoa

Tùy thuộc vào nguồn gốc địa lý của nơi sinh trưởng, Paphiopedilum appletonianum thường ra hoa trong thời gian giữa tháng Mười đến tháng Bảy, cao điểm là từ tháng Giêng qua tháng Ba. Trong tự nhiên thường ra hoa trước khi kết thúc mùa khô.

Các biến loài và biến thể

Paphiopedilum appletonianum forma immaculatum (Braem) Braem

Đây là một cây albino nguyên thủy, thiếu vắng màu đỏ. Các lá đài đều có màu xanh sáng với những vẫn xanh đậm màu hơn. Các cánh hoa màu xanh táo tinh khiết, phần đỉnh màu trắng. Chiếc túi có màu xanh táo với những vân xanh đậm màu, chóp màu trắng. Trong bản kê dòng lan, chúng được gọi là “var. album”, do Birk đặt vào năm 1983, nhưng cũng còn những cách gọi khác ngoài thuật ngữ album, vì thề khái niệm mà Birk đưa ra không có giá trị được công nhận trong các ấn phẩm.

Paphiopedilum appletonianum var. poyntzianum (O’Brien) Pfitzer

Các cánh hoa dài tới 6 cm, có màu xanh xỉn, phần gần đỉnh có màu đỏ tía. Chiếc túi màu trắng hòa với màu đỏ tía, tạo nên màu đỏ ở phần chân của nó.

Paphiopedilum appletonianum var. hainanense (Fowlie) Braem, Baker & Baker

Biến thể này trước kia đã được Fowlie mô tả như là một loài riêng biệt. Những cây thuộc biến loài này có nguồn gốc từ đảo Hải Nam Trung quốc, ở đó chúng mọc trên đá sa thạch, trên độ cao 460 đến 610 m. Mặc dù những cây này rõ ràng là trong phạm vi các cây biến loài trong tự nhiên của Paph. appletonianum, nhưng sự phát triển trên đảo của chúng là duy nhất như tất cả các cư dân khác xuất hiện ở đại lục. Các cây này được đặt tên là Paph. appletonianum var. hainanense có những đặc điểm khác hẳn với các cây ở đại lục bởi màu hoa của chúng sáng hơn nhiều và những vân trên lá của chúng đậm nét hơn. Vì lý do đó, tốt nhất là nên vẫn coi chúng như một biến loài riêng biệt thay vì đưa chúng thành một dòng hoàn chỉnh của hình thái danh định của Paph. appletonianum. Các cây của biến loài này ra hoa từ tháng Ba qua tháng Năm./.

Add a Comment

Your email address will not be published.