Paphiopedilum ooli

P. ooii

Phân giống (Sub-genus) Polyantha (Tiếp theo)

86) Paphiopedilum ooli Koopowitz

Dẫn nhập

Paphiopediulum ooli là một trong một những loài hiện bổ sung cho giống Paphiopedilum, loài này đã được mô tả vào năm 1999. Tại nhà riêng của ông Michael Ooi ở Malaysia, người đã trồng cây này ở nhà mình. Một vài cây trong số đó vừa qua đã ra hoa và chúng tôi dự tính chỉ trong vài năm nữa hạt của cây này sẽ có mặt trên thị trường.

Paph. ooli nằm trong phân giống Polyantha. Koopowitz đã so sánh chúng với Paph. glanduliferum (tức là Paph. praestans) nhưng bản kết luận về mối quan hệ của Paph. ooli với các loài khác của phân giống này thì còn phải chờ cho đến khi có những thông tin đáng tin cậy.

Mô tả

Paphiopedilum ooli là một cây được cho là thuộc họ thảo mộc, nói chung là chúng mọc ở nơi có nhiều mùn từ lá mục. Cây mẫu có ba cặp lá màu xanh xỉn, không có vân, lá gập gần hết theo chiều dọc của đường vân giữa. Lá rất dài, chiều dài của lá từ 54 đến 71 cm, rộng 6 đến 7 cm. Bản thân lá có hình mũi mác thuôn phần đầu tròn, chia hai thùy bằng nhau. Vòi hoa dài tới 2 m, với đường kính 1,5 cm. Mỗi vòi hoa mang trên nó từ 4 đến 12 hoa. Các bông hoa mọc hai bên vòi hoa, cách nhau 3 cm, đo chiều cao của mỗi hoa được 8,5 cm, tính từ đầu mút lá đài sau đến đầu cánh hoa. Lá đài sau có hình trứng rộng, diềm của nó hơi quăn,  phần quăn này cách điểm giữa của lá đài 2,9 cm, chạy theo chiều dọc 3 cm. Màu nền của lá đài sau là xanh của ngà, song chúng lại điểm thêm 15 đến 17 đường vân rộng 1 mm, chạy theo chiều dọc, các đường vân có màu nâu đỏ. Từ phần chân trở lên của lá đài sau khoảng 0,5 cm có một ít đường kẻ, phần đầu của các đường kẻ cuộn vào hai bên diềm. Các cánh hoa uốn cong xuống, dài chừng 6,2 cm, phần chân rộng 0,7 cm. Loài lan này không có những “mụn” trên cánh hoa, nhưng phần dưới của diểm thì rất cứng, còn phần ngọn thì mềm. Màu của cánh hoa là màu kem của ngà rồi trộn lẫn với màu xanh của ngà ở phần ngọn, tạo ra một màu xanh đậm. Ở tâm của diềm mỗi cánh hoa đều có một hoặc hai sọc màu đỏ hạt dẻ chạy theo chiều dọc, nhưng không nổi bật. Lá đài kép như dấu dưới cái túi, có chiều dài 3,5 cm, rộng 3 cm, có một cặp đường sống gân. Miếng nhụy lép như miếng xương trắng, có chiều dài 1,4 cm, rộng 0,9 cm, ở phần đầu có hình trứng phẳng, bị chia đôi bởi một khe hình chữ V hẹp. Phần chân của miếng nhụy lép có mép hẹp với lông ngắn màu nâu.

Nguồn gốc tên gọi

Lấy tên ông Michael Ooi đặt tên cho loài lan này, đó là một người trồng lan thương mại của Malaysia.

Phân bố và thói quen sinh trưởng

Thuộc miền bắc Borneo. Cây lan này được tìm thấy ở hai nơi trên triền núi thấp Kinabalu, trên độ cao 600 đến 1.200 m. Chúng mọc trên những lớp mùn lá cây mục trên sườn núi hướng về hướng đông bắc và những khe bị xói mòn. Bình thường người ta tìm thấy chúng cách vùng nước chảy 6 đến 12 m, và có thể sống ở dưới bóng râm và nới ánh sáng mạnh.

Mùa hoa

Paphiopedilum ooii như được nói đến ra hoa giữa tháng Giêng và tháng Ba. Đối với những loài khác thuộc phân giống Polyantha, có thể nói rằng chúng ra hoa quanh năm một khi cây đã trưởng thành./.

Add a Comment

Your email address will not be published.