Paphiopedilum josianae

Paph. josianae

Paphiopedilum josianae Braem & Nimpoonsri

Căn cứ để gọi tên

Theo tạp chí Orchid số 4:54 (1896), lúc đó người ta gọi loài này là Cypripedium concolor var. longipetalum Rolfe

Cùng loài

Paphiopedilum concolor var. longipetalum (Rolfe) Pfitzer

Paphiopedilum concolor var. longipetalum Gruβ & Lamwiriakul

Dẫn nhập

Vào năm 1896, một người nổi tiếng thời đó là Robert Alan Rolfe (1855-1921) đã mô tả một cây mới như là Cypripedium concolor var. longipetalum trong tạp chí Orchid số 4 (Rolfe 1896). Theo ghi nhận của Rolfe, cây lan này được sưu tập vào năm 1894, có quan hệ với Paphiopedilum concolor, song lại nói rằng, “chúng khác hẳn nhau về hình dạng của hoa”. Sau đó hai năm, trong cuốn chuyên khảo của F. Desbois về tất cả các loài lan hài (Desbois 1898), loài này là thuộc giống lan đã được nhắc đến cách nay hàng thế kỷ.

Sau đó ít năm, cây lan này lại xuất hiện trên thị trường châu Á, nó được sưu tập gần biên giới giữa Myanmar và Thailand, người ta gọi nơi đó là khu dân cư Tanintharyi (tên gọi xưa là Tenasserim). Olaf Gruβ và Prapanth Iamwiriyakul đã chuyển nhóm này sang giống Paphiopedilum (Gruβ & Iamwiriyakul 2006), trừ cách nhìn thực tế rằng, loài này đã được trồng bởi nhà thực vật người Đức tên là Ernst Pfitzer ở A. Engler, Das Pflanzenreich.

Không may, lỗi này không được nhấn mạnh trong các bản danh mục về tên không đúng của các loài lan trong việc chia nhóm các cây lan, như cây Paphiopedilum concolor var. longipetalum Gruss & Iamwiriyakul.

Gần đây, khi có đầy đủ thông tin để xem xét lại một cách nghiêm túc việc phân nhóm, và đã đạt được kết luận rằng tính phổ quát của nhóm này trong thiên nhiên là khá khác biệt về hình thái học của hoa. Mặc dù, có đủ yếu tố để tin rằng cây này có quan hệ gần gũi với Paphiopedilum concolor (Bateman) Pfitzer, những khác biệt giữa Paph. concolor và “variety longipetalum” của nó thể hiện rõ ít nhất giữa các cặp như Paph. anitum/Paph. adductum, Paph. lynniae/Paph. powii, Paph. parishii/Paph. dianthum, Paph. philippinense/Paph. roebbelenii, Paph. godefroyae/Paph. leucochilum và các căp khác nữa.

Với lý do đó, Paph. concolor var. longipetalum vừa qua đã được Braem & Nimpoonsri nâng lên thành một loài.

Nguồn gốc tên gọi

Tên josianae là để vinh danh bà Josiane Guiard của Voreppe ở Pháp.

Mô tả

Paphiopedilum josianae là một cây họ thảo mộc, thường mọc ở những hốc chứa thực vật bị phân hủy trên nền đá vôi. Lá của chúng có hình ê-lip tới hình ê-lip hẹp, dài đến 15 cm và rộng 2,5 đến 3,5 cm. Lá khảm màu tối và xanh lá ánh lên màu trắng, đầu lá tù và chia làm hai thùy, mặt dưới của lá dầy đặc những đốm màu đỏ tía, trông tưởng như chúng chỉ có một màu đỏ tía.

Vòi hoa cao tới 8 cm, thông thường thì chỉ có một hoa. Cuống hoa nhỏ, lá bắc của hoa và bầu nhụy màu xanh lá, có những đốm đỏ tía và đầy lông. Cuống hoa dài 2,5 đến 4,5 cm, lá bắc của hoa dài 2 cm, và bầu nhụy dài 3,2 cm.

Tổng quát, hoa có chiều ngang từ 6 đến 7,3 cm, màu kem tối, trên các cánh hoa, lá đài và túi có những đốm đỏ tía. Mặt trong của lá đài sau và các cánh hoa trông như có những đường đứt gẫy hình thành bởi các đốm đỏ. Những đốm trên các hoa khác nhau nhiều, ngoài những đoạn thẳng lúc nào cũng hiện diện. Lá đài sau dài đến 4 cm và rộng từ 1,5 đến 2,3 cm, hình ô-van. Các cánh hoa hình ê-lip hẹp đến hình ê-lip, dài 4 đến 5 cm, rộng 1 đến 1,7 cm, buông xuôi đến gần như căng ngang, nhưng trong hầu hết các cây mẫu đã thấy cho đến nay, thì các cánh hoa tạo thành một góc 45 độ so với trục dọc của hoa. Môi hoa (túi) hình côn, hình dạng trông như cái hài được kéo dài ra, tạo thành một cái túi sâu, hơi hướng lên trên, chiều dài tổng quát đến 3,5 cm và chiều ngang đo được 1,3 đến 1,6 cm. Nhịp lép có hình trái tim, đầu nhọn hướng lên trên, phần bên trên có hai thùy chẻ ra ở trung tâm, dài 8 đến 9 mm, rộng 7,5 đến 8,5 mm, màu đất lợt.

Phân bố và thói quen sinh trưởng

Cho đến nay, người ta mới được biết nơi sinh trưởng của chúng là vùng biên giới giữa Myanmar và Thailand. Thông thường loài này mọc nơi nhiều sáng, chịu được ánh sáng mặt trời trực tiếp, với bộ rễ trong rêu hoặc trong lá mục.

Mùa ra hoa

Paphiopedilum josianae được biết ra hoa từ tháng Tư qua tháng Chín./. (Posted 1/8)

Add a Comment

Your email address will not be published.